Đẩy mạnh đào tạo nhân lực phục vụ phát triển công trình xanh, đô thị xanh và đô thị thông minh tại Việt Nam
MTXD - Việt Nam đang trong quá trình đô thị hóa nhanh, phát triển kinh tế xã hội với tốc đô tăng trưởng GDP cao trong khu vực và trên thế giới, để vượt qua giai đoạn “cái bẫy” của nước có thu nhập trung bình. Công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước đang yêu cầu tiêu thụ năng lượng và các nguồn tài nguyên khác ngày càng nhiều. Ngành Xây dựng là một trong những ngành tiêu thụ nhiều năng lượng, tài nguyên và phát sinh ô nhiễm môi trường trong xây dựng, phát triển đô thị cũng như các điểm dân cư nông thôn. Khu vực xây dựng và phát triển đô thị của Việt Nam hiện nay đang tiêu thụ khoảng 60% vật liệu tự nhiên, khoảng 30% - 35% tổng năng lượng tiêu thụ quốc gia, 30% nguồn nước sạch, tương đồng với việc phát sinh khoảng 30% khí thải CO2, gây hiệu ứng nhà kính tạo nên tác động biến đổi khí hậu ( BĐKH ) và nước biển dâng.
Phát triển công trình xanh, hướng dẫn, thúc đẩy hoạt động thiết kế xây dựng công trình xanh, đô thị xanh và đô thị thông minh đang là một định hướng và xu hướng hoạt động cấp bách và cần thiết để sử dụng năng lượng và tài nguyên tiết kiệm có hiệu quả trong lĩnh vực xây dựng, hạn chế tác động ô nhiễm tới môi trường giảm phát thải, góp phần phát triển các đô thị và nông thôn một cách bền vững.
Tuy nhiên công tác xây dựng và phát triển đô thị và điểm dân cư nông thôn Việt Nam hiện tại vẫn đang tồn tại bất cập và đang đứng trước nhiều thách thức. Xu hướng phát triển công trình xanh, đô thị xanh, đô thị sinh thái, đô thị thông minh bắt đầu được thực hiện từ những thập niên đầu của thế kỷ 21. Tuy nhiên xu hướng phát triển xanh vẫn chưa thật sự được coi trọng. Nhiều nhà quản lý, chủ đầu tư, doanh nghiệp và chủ sở hữu công trinh vẫn coi trọng yếu tố kinh tế, lợi nhuận hơn yếu tố môi trường và sinh thái. Theo tổng quan đánh giá của hệ thống mạng lưới công trình xanh ( CTX) Châu Á – Thái Bình Dương, số lượng công trình xây dựng đạt tiêu chí xanh và được chứng nhận công trình xanh của Việt Nam hiện nay (khoảng 128 công trình ), đang ở mức rất khiêm tốn.
Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác đang đứng trước sự mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu về năng lượng, trước tốc độ phát triển kinh tế - xã hội và đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng. Trong khi vẫn đang tồn tại cách tiêu dùng lãng phí và kém hiệu quả về năng lượng trong mọi mặt của đời sống xã hội.
Ngày 14/4/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 79/2006/QĐ-CP về việc Phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Năm 2010 bộ Luật số 50/2010/ QH 12 về Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã được ban hành và chính thức có hiệu lực thi hành từ tháng 1/2011 . Thủ tướng chính phủ cũng đã ban hành quyết định số 1393/QĐ-TTg năm 2012 về kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh. Năm 2016 Bộ xây dựng cũng đã ban hành kế hoạch hành động Tăng trưởng xanh trong ngành Xây dựng. Một số Quy chuẩn và Tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia đã được ban hành nhằm quy định bắt buộc tuân thủ cũng như hướng dẫn, đánh giá cho các công trình xây dựng phục vụ mục tiêu sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả và phát triển xanh.
Ảnh minh họa
1-Khái niệm công trình xanh – đô thị xanh
Xu hướng phát triển công trình xanh là một xu hướng tiên tiến đã và đang được thúc đẩy phát triển trong thiết kế kiến trúc xây dựng tại nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam. Các công trình sẽ được thiết kế xây dựng và vận hành theo các tiêu chí như địa điểm bền vững, sử dụng hiệu quả tài nguyên, tạo không gian cây xanh trong giải pháp thiết kế, tiết kiệm năng lượng, sử dụng vật liệu thân thiện môi trường, chú trọng giải pháp giảm trừ ô nhiễm môi trường. Theo kinh nghiệm một số nước trên thế giới đầu tư xây dựng các công trình xanh, trung bình sẽ đòi hỏi tăng vốn đầu tư khoảng từ 3 – 8 % so với đầu tư thông thường, nhưng các công trình xanh sẽ tiết kiệm được 15 đến 30% năng lượng sử dụng, sẽ giảm khoảng 30 - 35% lượng khí thải carbon, tiết kiệm từ 30% - 50% lượng nước sử dụng và từ 50% - 70% chi phí xử lý chất thải. Các công trình xanh sẽ góp phần bảo tồn các nguồn tài nguyên, thân thiện với môi trường, chi phí sử dụng thấp, đảm bảo sức khỏe người sử dụng, tuổi thọ công trình cao .
Kiến trúc xanh – Công trình xanh “Green Building” là một khái niệm không mới, nhưng để hiểu đúng về kiến trúc xanh cần phải có khái niệm cơ bản: Một công trình vận hành với chi phí cho việc sử dụng năng lượng ở mức tiết kiệm tối ưu, ít gây tác động ảnh hưởng đến môi trường, đảm bảo các tiện nghi tối đa cho hoạt động của công trình. Nhắc đến khái niệm này, chúng ta cần phân biệt giữa kiến trúc xanh với hình ảnh của các khu nghỉ sang trọng rợp bóng cây hay các toà nhà hi-tech hiện đại. Khái niệm “kiến trúc xanh” cũng đòi hỏi quan tâm công trình được xây dựng, khi vận hành sẽ hài hòa với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh. Mặt khác, cũng không nên quan niệm “xanh” chỉ là tăng mật độ cây xanh, hoàn toàn không dùng đến máy móc như máy lạnh, mà nên hiểu là trong phương án thiết kế có sử dụng các giải pháp cách nhiệt tốt, che chắn nắng tốt… để hệ thống điều hòa, máy lạnh hoạt động thấp mà hiệu quả cao.
Kiến trúc xanh là công trình xây dựng được thiết kế kiến trúc nhằm tạo lập một môi trường sống vệ sinh và lành mạnh cho con người, đồng thời bảo vệ môi trường sống chung, tạo được sự phát triển cân bằng ổn định của hệ sinh thái đô thị. Kiến trúc xanh thể hiện toàn diện mục tiêu phát triển bền vững của lĩnh vực kiến trúc trên toàn cầu .Kiến trúc xanh theo cách đánh giá của tổ chức hàng đầu của giới kiến trúc sư Mỹ - American Institute of Architects - hàng năm khi chọn công trình trao giải top ten công trình xanh là giải quyết các vấn đề sau: Có sử dụng năng lượng hiệu quả không? Có tận dụng ánh sáng tự nhiên và tiết kiệm nước không? Công trình có hoà nhập với cộng đồng chung quanh không? Tóm lại, công trình được thiết kế xây dựng có tác động thế nào đến thế giới và môi trường chung quanh.
Khái niệm “kiến trúc xanh”, hay nhiều người hiểu theo một cách khác là “kiến trúc bền vững” (sustainable building), được dùng để đề cập đến việc tạo ra các công trình kiến trúc và sử dụng những phương pháp mang tính thân thiện với môi trường và tính hiệu quả trong việc sử dụng năng lượng và tài nguyên thiên nhiên trong suốt vòng đời của công trình: Từ thiết kế, xây dựng, điều hành, bảo trì, cải tạo cho đến tháo dỡ. Khái niệm này được mở rộng và bổ sung thêm vào những mục tiêu của công tác thiết kế xây dựng truyền thống là kinh tế, hữu dụng, kiên cố và tiện nghi.
Muc tiêu chính của kiến trúc xanh vẫn là xoay quanh vấn đề giảm các xung đột chính giữa môi trường xây dựng nhân tạo với sức khỏe con người và môi trường thiên nhiên, bằng các cách:
- Sử dụng một cách có hiệu quả năng lượng, nước và các tài nguyên thiên nhiên khác.
- Bảo vệ sức khỏe của người sử dụng công trình và tăng sức sản xuất của nhân lực thông qua việc nâng cao chất lượng môi trường bên trong công trình.
- Giảm thiểu chất thải, tác động gây ô nhiễm và suy thoái môi trường chung quanh công trình .
Đô thị xanh, đô thị sinh thái
Khái niệm đô thị xanh, đô thị sinh thái là xu hướng phát triển "đô thị bền vững" trong thực tế hiện nay rất đa dạng. Về quản lý hành chính đô thị, người ta nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa cơ quan công quyền và người dân, về môi trường thì nhấn mạnh đến thái độ ứng xử của thế hệ hiện tại trong việc bảo vệ môi trường, sinh thái, cảnh quan đô thị, khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên ( Đất đai, năng lượng, nước, vật tư, vật liệu...) không làm ảnh hưởng đến các thế hệ mai sau. Chưa kể mỗi quốc gia tuỳ theo từng đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội ở mỗi giai đoạn lại đưa ra những định nghĩa cũng như các tiêu chí riêng của mình. Đối với nước ta đang trong quá trình Công nghiệp hoá và đô thị hoá vì vậy xây dựng các đô thị phát triển bền vững là một mục tiêu phải hướng tới và cần có những tiêu chí cụ thể để các đô thị phấn đấu xây dựng. Vai trò của Chính quyền đô thị là rất lớn trong việc lãnh đạo điều hành để đảm bảo tốt được vấn đề phát triển đô thị hài hoà, hiện thực góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển đô thị một cách bền vững của nước ta.
Hiện nay chưa có tiêu chuẩn quốc gia cũng như hệ thống tiêu chí đánh giá đô thị Xanh tại Việt nam. Đô thị Xanh, đô thị sinh thái thường được hiểu là tăng cao mật độ cây xanh, không gian xanh, thực chất như vậy chưa đủ. Căn cứ tuyên ngôn Thành phố xanh của UNEP cũng như tham khảo kinh nghiệm quốc tế và một số tài liệu đã được công bố trên các tạp chí chuyên môn ở trong nước và trên thế giới, bộ tiêu chí cơ bản của một đô thị xanh phục vụ cho công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị:
a- Quy hoạch sử dụng đất đô thị hợp lý và bảo đảm không gian xanh cần thiết
Quy hoạch đô thị xanh phải tôn trọng hệ sinh thái tự nhiên của đô thị, tạo ra các không gian xanh và không gian mặt nước sao cho người dân đô thị, khách vãng lai, khách du lịch khi đi trên các đường phố không bị mảng bê tông che chắn, có thể nhìn lên thấy bầu trời trong xanh, mặt nước trong xanh và tiếp cận các công viên theo bán kính phục vụ ngắn nhất. Cần tập trung bảo tồn và mở rộng diện tích công viên và mặt nước, đáp ứng qui định của các quy chuẩn quốc gia QCVN. Chỉ tiêu đất cây xanh và mặt nước cần ≥ 50 % đất đô thị .
Hệ thống cây xanh độ thị làm tăng thẩm mỹ cảnh quan đô thị, tạo ra cảm giác êm dịu về mầu sắc và môi trường khí hậu đô thị, tôn cao giá trị thẩm mỹ của các công trình kiến trúc, các đài kỷ niệm, các danh lam, thắng cảnh. Các khu chức năng đô thị và các công trình xây dựng cần tuân thủ các quy định về mật độ xây dựng và hiệu quả sử dụng đất .
Ảnh minh họa
b-Tiêu chí thứ 2: Công trình kiến trúc xanh
Các công trình kiến trúc đô thị cần được xây dựng mới và cải tạo chỉnh trang theo định hướng công trình xanh, kiến trúc xanh .
- Đó là công việc Xanh hoá công trình: Cây xanh, thảm cỏ phủ mặt đất, cây xanh trên bề mặt công trình, cây xanh trong công trình, đa dạng sinh học sân trong, sân thượng và tầng lửng công trình, chống chói loá từ mặt kính...
- Tiết kiệm và sử dụng hợp lý năng lượng: Giảm thiểu tiêu thụ năng lượng trong bố cục không gian kiến trúc công trình, trong thiết kế kết cấu bao che ( cách nhiệt, che nắng, vật liệu xây dựng), tận dụng ánh sáng tự nhiên, thông gió tự nhiên, tiết kiệm năng lượng đối với hệ thống điều hoà không khí và hệ thống chiếu sáng nhân tạo, làm mát nhà. khai thác sử dụng năng lượng tái tạo (như pin mặt trời cấp điện, năng lượng gió, đun nước nóng bằng năng lượng mặt trời ).
- Tiết kiệm nguồn nước: Tiêu thụ nước có hiệu quả, tái sử dụng nước thải làm nước rửa vệ sinh và tưới cây, lưu trữ và sử dụng nước mưa.
- Chất thải từ quá trình vận hành công trình ra môi trường xung quanh ít nhất, giảm thiểu các nguồn thải của công trình ( khí thải, nước thải, chất thải rắn).
Đảm bảo chất lượng môi trường không khí trong nhà trong sạch, hệ số trao đổi không khí tươi mát đạt yêu cầu vệ sinh; không bị ồn rung; Bề mặt trong nhà không bị đọng sương, ngưng tự ẩm, vật liệu không bị ẩm mốc; hệ thống công trình vệ sinh, xí tắm hoàn chỉnh, đạt tiêu chuẩn môi trường, bảo đảm sức khoẻ và tiện nghi
- Tiêu chí thứ 3: Giao thông đô thị xanh
-Quy hoạch không gian đô thị hợp lý:( Bố trí khu ở, khu làm việc, khu trung tâm dịch vụ - thương mại, khu nghỉ ngơi giải trí, các trường học, các bệnh viện...) để giảm bớt nhu cầu đi lại của người dân
-Quy hoạch hệ thống hạ tầng kỹ thuật giao thông vận tải thoả mãn nhu cầu giao thông đi lại của người dân. Có 3 chỉ tiêu quan trọng: (1) Tỷ lệ tổng diện tích giao thông trên tổng diện tích của đô thị; ở các đô thị hiện đại trên thế giới tỷ lệ này là 15 - 25%,; ( 2) Tỷ lệ diện tích đất dành cho các bãi đỗ xe; hiện nay diện tích bãi đỗ xe của Hà Nội chỉ chiếm khoảng 0,3% diện tích đất xây dựng, trong khi ở các TP phát triển trên thế giới họ thường dành diện tích đất cho các bãi đỗ xe tới 3-6%; (3) Tỷ lệ tổng chiều dài đường km trên 1km2 diện tích đô thị, ở nội thành Hà Nội chỉ đạt 3,89km/km2, ở nội thành TP. Hồ Chí Minh chỉ đạt 3,88km/km2 .
-Phát triển giao thông công cộng ( xe bus, xe điện, ...): Chỉ có phát triển giao thông công cộng ( trên 40% nhu cầu đi lại) thì mới đạt chỉ tiêu giao thông đô thị xanh. Tạo điều kiện cho người dân đô thị đi bộ và đi xe đạp. Nếu đi bằng xe đạp và đi bộ thì không phát thải chất thải ô nhiễm không khí; nếu đi bằng xe máy, xe ô tô con thì sẽ phát sinh chất thải ô nhiễm không khí tính trên đầu người sẽ gấp 15-20 lần so với đi bằng xe bus.
-Thắt chặt dần thực thi các tiêu chuẩn môi trường có liên quan:
Về tiêu chuẩn chất lượng không khí xung quanh: Các tiêu chuẩn chất lượng không khí xung quanh đã được áp dụng ở nhiều nước Châu Á từ những năm của thập niên 90 thế kỷ trước, còn ở nước ta mãi đến năm 2005 mới ban hành tiêu chuẩn tương tự. Về tiêu chuẩn khí thải của xe ô tô nhiều nước Châu Á đã áp dụng tiêu chuẩn EURO2 trước năm 2000, ở nước ta quy định áp dụng từ 2007 cũng chủ yếu đối với xe mới, còn đối với xe đang hoạt động thì chưa bắt buộc. Xây dựng hệ thống các trạm kiểm tra nguồn thải của xe và trạm bảo dưỡng sửa chữa xe.Thực hiện thu phí khí thải giao thông và khuyếnkhích giảm khí thải giao thông.
- Tiêu chí thứ 4: Công ngiệp xanh
Các cơ sở sản xuất công nghiệp và thử công nghiệp trong đô thị cần áp dụng hoặc cải tạo để chuyển đổi sang công nghệ sản xuất sạch và sạch hơn:
- Sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu tiết kiệm có hiệu quả cao, phát sinh chất thải ít nhất, sản xuất ra các sản phẩm nhiều nhất.
- Phát triển công nghiệp phát thải carbon thấp.
- Thực hiện chu trình tái sử dụng, tái chế chất thải trong ngành sản xuất công nghiệp để giảm thiểu chất thải thải ra môi trường.
- Sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo thay thế cho năng lượng từ đốt nhiên liệu hoá thạch.
e-Tiêu chí thứ 5: Hoàn thiện hệ thống thu gom, xử lý và tái chế, tái sử dụng chất thải ( nước thải, chất thải rắn, khí thải )
- Quản lý chất thải rắn cần bảo đảm 100% chất thải rắn sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp, chất thải nguy hại phát sinh trong đô thị được thu gom, phân loại, vận chuyển an toàn, tái chế, tái sử dụng và xử lý thải bỏ đúng kỹ thuật an toàn vệ sinh môi trường.
- Quản lý tốt hệ thống thoát nước mặt, hệ thống thoát nước thải đô thị. Xây dựng hệ thống thu gom nước mưa, hệ thống xử lý và tái sử dụng nước thải sinh hoạt để sử dụng cho rửa xe, rửa đường, tưới cây ...
- Vệ sinh đường phố luôn luôn sạch: Đường phố, vỉa hè của đô thị sinh thái thường xuyên được giữ gìn vệ sinh, quét dọn sạch sẽ, trong các ngày nắng nóng hanh khô được tưới nước rửa đường sạch sẽ.
1.3 Đô thị thông minh
Hiện nay một số đô thị trên thế giới đang phát triển theo mô hình đô thị thông minh ( Smart city ). Thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí minh và một số thành phố lớn khác cũng đang hoạch định chiến lược phát triển đô thị thông minh.
Cho đến nay có một số khái niệm về đô thị thông minh, chưa có một khái niệm thống nhất về mặt lý luận. Tuy nhiên các khái niệm này đều thống nhất về cách nhận thức định nghĩa cơ bản: Đô thị thông minh là mô hình một đô thị hay một khu đô thị, khu nghỉ dưỡng, khu công nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo để quản lý vận hành nâng cao chất lượng đô thị, tiêu chuẩn vận hành, nâng cao hiệu quả quản lý và phục vụ của cơ quan quản lý địa phương, ban quản lý khu đô thị nhằm định hướng phát triển bền vững ( thực hiện 3 mục tiêu về kinh tế ,xã hội và môi trường ), sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên ( năng lượng, quỹ sử dụng đất, nguồn nước, vật tư, vật liệu xây dựng...).
2, Hiện trạng phát triển Công trình xanh, đô thị xanh tại Việt Nam
Để thúc đẩy phất triển công trình xanh tại Việt Nam, rất cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các nhóm đối tác sau:
- Các cơ quan quản lý nhà nước
- Các nhà thiết kế, tư vấn
- Các nhà thầu xây dựng
- Nhà cung cấp trang thiết bị
- Các nhà đầu tư phát triển, chủ đầu tư, chủ sở hữu
- Các Hội nghề nghiệp
- Các Trường, Viện
- Truyền thông
Tuy nhiên hiện nay sự phối hợp các bên chưa thật chặt chẽ và hiệu quả. Mặt khác hiện trạng phát triển công trình xanh tại Việt Nam đang đứng trước một số thách thức sau đây:
- Phát triển đô thị xanh và công trình xanh tại Việt nam vẫn đang là nội dung chưa được quan tâm đúng đắn trong Chương trình quốc gia về Tăng trưởng xanh của Việt Nam.
- Các cơ quan quản lý nhà nước chưa có định hướng chiến lược và các giải pháp chính sách hỗ trợ cụ thể để thúc đẩy phát triển công trình xanh, đô thị xanh tại Việt Nam.
- Nhiều nhà đầu tư phát triển, nhiều chủ đầu tư, chủ sở hữu công trình chưa coi trọng yêu cầu bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên và năng lượng, còn quan ngại việc đầu tư công trình xanh sẽ làm tăng tổng chi phí đầu tư xây dựng, hoặc gắn đầu tư xanh với việc gia tăng lợi nhuận ( thực chất đầu tư công trình xanh chỉ làm tăng thêm khoảng 5- 10 % so với đầu tư thông thường, khi đầu tư các giải pháp xanh sẽ làm tăng giá trị của bất động sản)
Sự phát triển công trình xanh Việt Nam đang cần sự quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện thúc đảy của các cơ quan quản lý nhà nước như Bộ Xây dựng , Bộ Kế hoạch đầu tư , Bộ Khoa học Công nghệ và Bộ Tài nguyên Môi trường . Phát triển Công trình Xanh cần được xây dựng thành phong trào và tiến tới sẽ là kế hoạch hành động của các địa phương và quốc gia .
Hiện nay đang có một số tổ chức tham gia hoạt động đánh giá và cấp chứng nhận Công trình Xanh Kiến trúc Xanh tại Việt Nam như LEED , Green Mark , EDGE . Lotus ….Số lượng công trình đã đăng ký và đã được cấp chứng chỉ Công trình Xanh , Khu đô thị Xanh chưa nhiều . Thành phố Đà Nẵng đang phấn đấu thành thành phố Môi trường , thành phố đáng sống . Thành phố Huế là thành phố đầu tiên của Việt Nam đã được tổ chức Quỹ bảo tồn thiên nhiên thế giới bình chọn vinh danh là thành phố Xanh quốc gia . Ngoài ra các đô thị khác chưa thành phố nào đã được công nhận chứng chỉ đô thị xanh , đô thị bền vững .Do vậy nhu cầu thúc đảy phát triển công trình xanh và đô thị xanh là rất cấp bách .
3. Kiến nghị đảy mạnh công tác đào tạo Kiến trúc , Xây dựng phục vụ phát triển công trình xanh , đô thị xanh tại , đô thị Thông minh tại Việt Nam
Bộ Xây dựng hiện đang chỉ đạo điều hành phát triển Công trình Xanh , Đô thị Xanh tại Việt Nam . Hiện đang có một số tổ chức quốc tế và Hội nghề nghiệp ( như Hội Kiến trúc sư Việt Nam , Hội Môi trường Xây dựng Việt Nam , Hiệp Hội BĐS Việt Nam ) đang hoạt động thúc đảy phát triển CTX và đô thị Xanh . Các trường Đại học đào tạo Kiến trúc , Xây dựng chịu trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển đô thị , phát triển Kiến trúc của đất nước . Đây là một đối tác quan trọng trong hoạt động nghiên cứu và phát triển , cũng như cần cung cấp những kiến thức và kỹ năng cơ bản cho các Kiến trúc sư , kỹ sư , cán bộ quản lý đô thị và xây dựng , các nhà thầu và chủ đầu tư xây dựng tương lai .
Do vậy hoạt động đào tạo cần phải đi đầu trong thúc đảy phát triển CTX, Đô thị Xanh , Đô thị Thông minh của đất nước . Những hoạt động đào tạo và NCKH Phát triển công trình xanh , đô thị Xanh cần thiết được triển khai hoạt động như sau :
- Biên soạn giáo trình , bài giảng về Kiến trúc Xanh , Đô thị Xanh , Đô thị sinh thái và đưa vào chương trình đào tạo đại học và sau đại học .
- Đề xuất Chương trình Phát triển CTX ngắn hạn và dài hạn cho Việt Nam; Đề xuất với nhà nước các chính sách có liên quan để phát triển CTX như một cuộc Cách mạng mới trong lĩnh vực xây dựng và phát triển đô thị của đất nước.
- Tham gia nghiên cứu biên soạn một số Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN và Tiêu chuẩn quốc gia TCVN về Hệ thống tiêu chí đánh giá CTX thích hợp cho Việt Nam , về Công trình Xanh, về Công trình phát thải Carbon thấp , Công trình cân bằng Carbon .
- Tổ chức tuyên truyền vận động , tổ chức Hội thảo , các khóa tập huấn nhằm phổ biến và nâng cao kiến thức và nhận thức đúng đắn về CTX cho các tổ chức nghề nghiệp , doanh nghiệp về kiến trúc, xây dựng, môi trường, các cơ quan quản lý xây dựng , quản lý đô thị toàn quốc, và các cộng đồng dân cư, để sự đồng thuận và hưởng ứng của cộng đồng và của xã hội.
GS TS NGUYỄN HỮU DŨNG
Chủ nhiệm Khoa Kiến trúc, Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
Tài liệu tham khảo :
Nguyễn Hữu Dũng –Tiết kiệm năng lượng và tài nguyên – tiêu chí quan trọng của phát triển đô thị và kiến trúc bền vững , tạp chí Xây dựng ,Số 3. 2011
Nguyễn Hữu Dũng – Quản lý môi trường đô thị - Bài giảng , Đại học kinh doanh & công nghệ , Hà Nội 2015
Nguyễn Hữu Dũng – Xây dựng tiêu chí cho mô hình” làng đô thị Xanh”, Tạp chí Kiến Trúc Việt Nam , Số 198/2016
Phạm Ngọc Dăng ,Nguyễn Việt Anh , Phạm thị Hải Hà , Nguyễn văn Muôn , Các giải pháp thiết kế công trình Xanh , NXB Xây dựng , Hà Nội 2014
Ngô Viết Hùng , Nguyễn Hữu Dũng , Xây dựng hướng dẫn thiết kế Công trình Xanh ( đối với tòa nhà văn phòng )tại Việt nam , Đề tài cấp Bộ XD TK 09- 09 , Hà Nội 2011
Ken Yeang – Design with nature – The ecological basic for Architectural design , MCGraw- Hill 1995
Kupasswamy Lyengar, Sustaiable Architectural Design , Taylor & Francis 2015
Các tin khác
Yên Mô – Ninh Bình: Nâng cao chất lượng cuộc sống từ xây dựng nông thôn mới tại xã Yên Lâm
MTXD - Sau khi đạt chuẩn NTM nâng cao vào năm 2021, cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị từ xã đến các thôn, xóm đã tập trung mọi nguồn lực, huy động sự vào cuộc của nhân dân đến năm 2024 xã Yên Lâm, huyện Yên Mô đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu.
Hiện thực hóa quy hoạch đô thị sông Hồng
MTXD - Có thể nói Hà Nội ngày nay đang hội tụ đầy đủ trong mình nhiều yếu tố gồm cả thế và lực để hiện thực hóa khát vọng, hiện thực hóa mục tiêu xây dựng không gian hai bên sông Hồng trở thành “Biểu tượng phát triển mới của Thủ đô”.
Đô thị nén sự lựa chọn hình thái của các đô thị phát triển theo hướng sinh thái ở Việt Nam
MTXD - QCVN 01:2019 đã làm rõ nội dung về kiểm soát mật độ dân số trong các đồ án quy...
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khẩn trương ứng phó bão số 3
MTXD - Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Công điện số 86/CĐ-TTg ngày 3-9-2024 chỉ đạo các bộ ngành, địa phương khẩn trương triển khai ứng phó bão số 3 năm 2024.