Định hướng phát triển đô thị sinh thái ở Việt Nam: Trường hợp thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum
MTXD - Ngày nay, với tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng đã gây ra những áp lực về rác thải, khí thải... khiến cho lượng khí nhà kính tại các đô thị gia tăng, dẫn đến nguy cơ ô nhiễm môi trường. Phát triển “đô thị sinh thái”1 (Ecocity) được coi là giải pháp tạo ra không gian xanh và cân bằng trong quá trình phát triển của đô thị, hướng tới phát triển đô thị bền vững. Đặc biệt, trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đặt ra những cơ hội, thách thức và yêu cầu phát triển mới cho các đô thị ở Việt Nam, thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum cũng không phải là ngoại lệ.
Với lợi thế về nguồn lực tự nhiên chưa bị tận khai, đậm đà bản sắc dân tộc… nhưng do xuất phát thấp, nghèo, các nguồn lực cơ bản về kinh tế - tài chính, nguồn lực con người, năng lực đổi mới - sáng tạo đang là những rào cản để có thể đưa thị trấn Măng Đen lên một trình độ (đẳng cấp) phát triển mới trên tất cả các mặt, nhất là đến nay chưa định hình chân dung đô thị, càng chưa định hướng đô thị theo hướng hiện đại và bản sắc. Theo đó, bài viết tập trung nghiên cứu đánh giá thực trạng và đề xuất định hướng chiến lược xây dựng và phát triển thị trấn Măng Đen thành “đô thị sinh thái” nhằm hướng tới phát triển đô thị bền vững giai đoạn đến năm 2030.
Thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum.
1. Tổng quan về đô thị sinh thái
Đến nay, từ các tiếp cận khác nhau, có nhiều khái niệm khác nhau về “đô thị sinh thái”. Theo KTS Bùi Kiến Quốc, cuối thế kỷ XIX, lần đầu tiên ý tưởng về một “đô thị sinh thái” xuất hiện dưới tên gọi Thành phố vườn (Garden-City) - là một phương án quy hoạch đô thị của Ebenezer
Howard nhằm giải quyết các vấn đề môi sinh của đô thị ở thời điểm khởi đầu quá trình hiện đại hóa… Theo Tổ chức Sinh thái đô thị của Úc thì “Một thành phố sinh thái là thành phố đảm bảo sự
1 “Sinh thái” hiểu theo nghĩa rộng là hệ thống thiên nhiên, trong đó các nhân tố hữu sinh và vô sinh kết hợp với nhau trong các mối quan hệ phức tạp và phụ thuộc lẫn nhau cùng với môi trường tự nhiên. cân bằng với thiên nhiên”, cụ thể hơn là sự định cư cho phép các cư dân sinh sống trong điều kiện chất lượng cuộc sống nhưng sử dụng tối thiểu các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Richard Register cho rằng, thành phố sinh thái bền vững là đô thị mật độ thấp, dàn trải, được chuyển đổi thành mạng lưới các khu dân cư đô thị mật độ cao hoặc trung bình có quy mô giới hạn được phân cách bởi các không gian xanh. Hầu hết mọi người sinh sống và làm việc trong phạm vi khoảng cách đi bộ và đi xe đạp1.
Các tiêu chí xem xét, đánh giá về đô thị sinh thái theo IES (International Ecocity Standard), gồm các nhóm: i) Cơ cấu đô thị: về sử dụng đất và kiến trúc đô thị; ii) Giao thông đô thị với thứ tự ưu tiên: giao thông đi bộ, xe đạp, thang vận, giao thông công cộng bằng xe điện hoặc tàu điện ngầm, giao thông công cộng bằng xe bus, rồi mới đến xe ô tô con; iii) Năng lượng: sử dụng năng lượng có thể tái tạo như gió, mặt trời…, hạn chế sử dụng tài nguyên không tái tạo được, dùng các giải pháp bảo tồn năng lượng; iv) Xã hội: đáp ứng tốt nhất các yêu cầu về kiến trúc và thiết kế chỗ ở và sinh hoạt cho người dân, đảm bảo về giáo dục và việc làm…; v) Nông nghiệp; vi) Quy hoạch các khu vực đặc thù và các công cụ quản lý; vii) Chính sách và thể chế quản lý, và viii) Kinh tế2…
Ở Việt Nam, hiện chưa có văn bản pháp luật3 nào quy định khái niệm cũng như các tiêu chí cụ thể khi xem xét đánh gía về đô thị sinh thái. Theo PGS. TS. Lưu Đức Hải, các khái niệm đô thị sinh thái đầu tiên được tập trung vào sự trao đổi về những hoạt động diễn ra trong đô thị (vòng tròn năng lượng, nước, chất thải, khí thải…), còn các tiêu chí quy hoạch đô thị sinh thái, theo nhận định của các nhà nghiên cứu về đô thị sinh thái có thể được khái quát trên các phương diện: kiến trúc công trình, sự đa dạng sinh học, giao thông, công nghiệp và kinh tế đô thị… Với 4 nguyên tắc chính để xây dựng thành phố sinh thái, gồm: i) xâm phạm ít nhất đến môi trường tự nhiên; ii) đa dạng hóa việc sử dụng đất, chức năng đô thị và các hoạt động khác của con người; iii) trong điều kiện có thể, cố giữ cho hệ thống đô thị được khép kín và tự cân bằng; iv) giữ cho sự phát triển dân số đô thị và tiềm năng môi trường được cân bằng một cách tối ưu (GS.TS. Lê Huy Bá)4.
Theo Nguyễn Trọng Phượng (2008): Đô thị sinh thái là đô thị mà trong quá trình tồn tại và phát triển của nó không làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, không làm suy thoái môi trường, không gây tác động xấu đến sức khỏe cộng đồng và tạo điều kiện thuận tiện cho mọi người sống, sinh hoạt và làm việc trong đô thị.
1 Bùi Kiến Quốc (2006), Đô thị sinh thái, https://tiasang.com.vn/-van-hoa/do-thi-sinh-thai-1399/ - truy cập5/8/2021
2 Lưu Đức Hải (2012). Đô thị sinh thái. Tạp chí Quy hoạch Đô thị, số 5, 2011.
http://thanhhoacpi.vn/tin-tuc/moitruong/do-thi-sinh-thai/185. Truy cập ngày 1/8/2021.
3 Ví dụ: Nghị định số 02/2006/NĐ-CP ngày 05/01/2006 của Chính phủ quy định về Quy chế khu đô thị mới,
Nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày 07/05/2009 của Chính phủ về Phân loại đô thị và Luật Quy hoạch đô thị (2009) chưa đề cập đến đô thị sinh thái.
4 Lưu Đức Hải (2012). Đô thị sinh thái. Tạp chí Quy hoạch Đô thị số 5, 2011.
http://thanhhoacpi.vn/tin-tuc/moitruong/do-thi-sinh-thai/185. Truy cập ngày 1/8/2021.
Như vậy, đô thị sinh thái được hiểu là đô thị có nhiều không gian xanh, chất lượng môi trường xanh, đạt được những tiêu chí về điều kiện và chất lượng môi trường sống sinh thái, góp phần bảo đảm sức khoẻ và tiện nghi cho cư dân, hướng tới sự phát triển bền vững của đô thị đó. Nói cách khác, đô thị sinh thái luôn hướng đến thiên nhiên và dựa trên các nguyên lí về sinh thái học. Khi phát triển các mô hình đô thị mới cần gắn kết không gian đô thị này với những khu vực lân cận để đảm bảo sự phát triển đồng bộ và toàn diện. Đây là mô hình lí tưởng cho sự phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, đảm bảo các chức năng của con người trong một hệ thống sinh thái thuần khiết.
Theo đó, trong khuôn khổ bài viết này, với việc sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiêncứu khác nhau như thống kê, phân tích, so sánh, dự báo và trên cơ sở khảo sát thực tế tại thị trấnMăng Đen, huyện Kon Plông (2019-2020), nhóm tác giả tập trung phân tích, đánh giá những lợithế và bất lợi thế, đề xuất định hướng xây dựng thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh KonTum trở thành “đô thị sinh thái” giai đoạn đến năm 2030.
Cánh đồng lúa xanh thẳm ở xã Măng Bút.
2. Đánh giá khái quát về lợi thế và bất lợi thế của thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum
Thị trấn Măng Đen1 có tổng diện tích tự nhiên là 148,07 km2 với 6.913 người (2019), mật độdân số là 47 người/km2. Nằm trên vùng đất khá bằng phẳng và rộng, cách trung tâm thành phốKon Tum hơn 50 km, là cửa ngõ phía tây của huyện Kon Plông; phía đông giáp xã Hiếu, tây giápxã Măng Cành, nam giáp huyện Kon Rẫy và tỉnh Gia Lai, bắc giáp xã Măng Cành và xã NgọkTem. Thị trấn Măng Đen là thủ phủ của huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum (UBND huyện KonPlông, 2020).Có thể khái quát một số lợi thế và bất lợi thế trong định hướng xây dựng thị trấn Măng Đenđến năm 2030 trở thành “đô thị sinh thái” như sau:
2.1. Về lợi thế
i) Thị trấn Măng Đen có nguồn tài nguyên tuyệt vời chưa bị tận khai, với sự khác biệt củanguồn lực tự nhiên về đất đai, thời tiết, đặc sản và nguồn lực xã hội, đó là bản sắc văn hóa củavùng đất Tây Nguyên.Diện tích đất nông nghiệp là 13.656,18 ha, trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp là:1.909,39 ha; đất lâm nghiệp là 11.547,76 hacộng với điều kiện tự nhiên thuận lợi (đất trồng đa dạng, khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên) để phát triển nông nghiệp công nghệ cao (phát triển rau hoa xứ lạnh). Quỹ đất xây dựng trên địa bàn thị trấn Măng Đen có khả năng đáp ứng nhu cầu
cho các dự án đầu tư có quy mô lớn. Các cơ sở cho sự tăng trưởng dài hạn - hiện đại - đặc sắc của
1 Nghị quyết số 720/NQ-UBTVQH14 ngày 16 tháng 7 năm 2019 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc thành lập thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum.
huyện Kon Plông vẫn được bảo tồn. Sự quan tâm phát triển với mức độ tăng dần cho địa bàn này mới khoảng 10-15 năm gần đây.
Thị trấn Măng Đen thuộc đỉnh của dãy Trường Sơn, nằm ở độ cao trung bình 1.100 - 1.200 m so với mực nước biển, nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, quanh năm mát mẻ, nhiệt độ trung bình hàng năm giao động từ 16-22oC, độ ẩm trung bình 82-84%, với rừng nguyên sinh bao bọc xung quanh, rừng có độ che phủ hơn 82% diện tích tự nhiên. Măng Đen có diện tích rừng lớn với khoảng 112.000 ha, trong đó rừng thông cổ thụ rộng lớn dọc theo quốc lộ 24 quy mô khoảng 4.000 ha. Nơi đây có những cảnh đẹp hoang sơ vẫn lưu giữ được những nét hùng vĩ, tự nhiên vốn có của nó, có nhiều hồ thác như thác Đăk Ke, thác Pa sỹ, thác Lô Ba…; hồ Toong Dam,
Toong Zởi, Toong Pô, hồ Đăk Ke…; suối đá và cảnh quan thiên nhiên, văn hoá bản địa độc đáo; có nhiều hệ động vật, thực vật quý hiếm sinh sống… Với vị thế là địa phương nằm trong vùng du lịch sinh thái Quốc gia Măng Đen, đô thị Măng Đen có nhiều tiềm năng thuận lợi để trở thành khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng cấp quốc gia gắn với nghiên cứu khoa học (UBND huyện Kon Plông, 2020). Là địa danh có nhiều danh lam thắng cảnh và các di tích lịch sử như: di tích lịch sử văn hoá Măng Đen với cụm cứ điểm M11 (đồn A), M12, sân bay Măng Đen, đài tưởng niệm chiến thắng Măng Đen, chùa Khánh Lâm và Tượng Đức mẹ Măng Đen khá nổi tiếng, thuận lợi để phát triển
du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái, du lịch tâm linh và nghỉ dưỡng. Thị trấn Măng Đen còn có truyền thống văn hoá lâu đời của đồng bào dân tộc thiểu số, tạo nên sắc thái độc đáo. Các bản làng văn hoá dân tộc với môi trường sống còn lưu giữ được nét sinh hoạt văn hoá truyền thống bản địa, với những nhạc cụ dân gian lâu đời; trang phục bản địa của người Xê Đăng, Mơ Nâm, Ka Dong, Hrê; văn hoá kiến trúc nhà rông, nhà dài… gắn với không gian núi rừng thiên nhiên. Ẩm thực đặc sản riêng có của Măng Đen như Heo làng quay, dê núi quay, gà làng nướng với muối tiêu rừng…, các loại rau xứ lạnh… Dân cư và các giá trị văn hoá độc đáo không chỉ là tiềm năng phát triển du
lịch mà còn là điều kiện tốt để phát triển kinh tế nói chung. Qua đó, tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động, cho phép mở rộng quy mô sản xuất, phát triển nhiều ngành nghề mới tạo thêm nhiều sản phẩm có chất lượng cao phục vụ xuất khẩu.
Ranh giới quy hoạch xây dựng đô thị Kon Plông phù hợp với ranh giới hành chính thị trấn Măng Đen1. Đây là cơ sở quan trọng để có thể phát huy có hiệu quả tiềm năng, lợi thế trong phát triển du lịch, nghỉ dưỡng, là trung tâm sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phục vụ phát triển du lịch sinh thái. Đồng thời, tạo lập môi trường hấp dẫn đầu tư để phát triển và xây dựng các công trình kinh tế - xã hội và mở rộng không gian đô thị - thị trấn Măng 1Quyết định số 298/QĐ-TTg ngày 05/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Quy hoạch xây dựng vùng du lịch sinh thái Măng Đen và Quy hoạch chung đô thị Kon Plông, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum đếnnăm 2030”.
Đen phát huy tốt vai trò đô thị động lực phát triển của huyện Kon Plông nói riêng, là hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng phía Đông Bắc của tỉnh Kon Tum. Giáo dục và đào tạo: được quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học, chương trình kiên cố hóa trường học, lớp học. Chất lượng giáo dục được nâng cao, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục đảm bảo về số lượng, hợp lý về cơ cấu. Văn hoá, thể dục, thể thao ngày càng phong phú, đa dạng hơn; có môi trường văn hóa đô thị tiến tới văn minh, hiện đại; chất lượng các hoạt động văn hóa được nâng cao; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, các giá trị tinh thần truyền thống đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân thị trấn. Một số địa điểm văn hóa tâm linh, các công trình văn hóa được quan tâm, đầu tư xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân.ii) Thị trấn Măng Đen là đầu mối giao thông và nơi giao thương, trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các xã trong huyện Kon Plông và các địa phương lân cận; là giao điểm giữa đường tỉnh lộ 676 và Quốc lộ 24 (kết nối giao thông tỉnh Kon Tum với tỉnh Quảng Ngãi và cắt ngang tuyến đường Đông Trường Sơn); thuận lợi trong giao lưu văn hóa, thương mại, phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Các tuyến đường phục vụ du lịch, các tuyến đường nội bộ
và đường khu dân cư trên địa bàn được đầu tư xây dựng mới bằng nhựa thâm nhập và bê tông. Tổng diện tích mặt đường trong khu vực trung tâm nội thị là 377.990,09 m2; mật độ đường trong khu vực trung tâm so với đất xây dựng trong khu vực trung tâm là 1,66%; bình quân diện tích đất giao thông 235,56 m2/người. iii) Là đô thị đi sau - thị trấn Măng Đen có thể tiến vượt, ít bị trói buộc bởi những khuôn khổ, nề nếp, thói quen cũ; có điều kiện rút kinh nghiệm từ những địa phương có điểm tương đồng đã thành công hoặc chưa thành công trong phát triển đô thị.
2.2. Bất lợi thế
i) Thị trấn Măng Đen nói riêng, huyện Kon Plông nói chung giàu tài nguyên nhưng nghèo kinh tế, trình độ phát triển thấp. Tổng gía trị sản xuất trên địa bàn năm 2020 ước đạt 134,16 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế nông - lâm - thủy sản: 24,5%; Công nghiệp - Xây dựng: 52,1%; Thương mại - dịch vụ: 23,4%. Thu nhập bình quân đầu người ước đạt 38 triệu đồng (UBND thị trấn Măng Đen, 2020). Nhìn chung, điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn. Với các lợi thế tĩnh - truyền thống bắt đầu quá trình phân bổ theo hướng khai thác triệt để trên các điều kiện về đất đai, nguồn nước,phong cảnh thiên nhiên cho phát triển.
ii) Với xuất phát điểm thấp, nghèo các nguồn lực cơ bản về kinh tế - tài chính, nguồn lực con người - năng lực đổi mới - sáng tạo, nguồn lực doanh nghiệp; thiếu các điều kiện hạ tầng kết nối giữa huyện Kon Plông và TP. Kon Tum cũng như các địa phương lân cận. Việc tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ đối với thị trấn Măng Đen đòi hỏi nguồn vốn lớn.
iii) Thị trấn Măng Đen (đô thị) mới được thành lập trên cơ sở xã Đắk Long (nông thôn), nơi đây sẽ tập trung đông dân cư, mật độ dân số cao gồm nhiều thành phần, dẫn đếngia tăng các loạiphương tiện tham gia giao thông, tăng lượng chất đốt, khí thải, nước thải, chất thải rắn... và làm tăng ô nhiễm môi trường. Lực lượng lao động chủ yếu là phi nông nghiệp, đa ngành, đa lĩnh vực,là địa bàn hoạt động của các loại thị trường, là nơi hội tụ trao đổi thông tin, sự chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân có xu hướng tăng lên.
Như vậy, bên cạnh những lợi thế về thiên nhiên, sinh thái, môi trường và là đô thị “đi sau”..., phát triển đô thị Măng Đen sẽ đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, bất lợi thế và chúng nằm trong mọi chiều cạnh được nhìn nhận tích cực. Vì thế, có thể nói Măng Đen có điều kiện cần vàđủ để phát triển thành đô thị sinh thái giai đoạn đến năm 2030.
3. Định hướng phát triển thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông giai đoạn đến năm 2030
Thời gian gần đây, Việt Nam đã chủ động trong việc nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài, tích cực thử nghiệm và áp dụng các ý tưởng phát triển mô hình mới với những điều chỉnh phù hợpđể giải quyết các vấn đề của đô thị, kể cả các đô thị loại nhỏ và trung bình hoặc các khu đô thị mới phát triển, mô hình “đô thị sinh thái” nhằm tìm kiếm những tiềm năng phát triển dựa trên nguồn lực sẵn có. Với những lợi thế và bất lợi thế của thị trấn Măng Đen có thể định hướng phát triển đô thị này đến 2030 như sau:
Thị trấn Măng Đen được xác định là vùng bảo tồn sinh thái, rừng quốc gia, vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, tiểu thủ công nghiệp phục vụ phát triển sinh thái, du lịch, không làm mất đi tính hài hòa với các hệ thống tự nhiên, là vùng trọng điểm phát triển kinh tế phía Đông Bắc của tỉnh Kon Tum1; là thủ phủ - trung tâm của huyện Kon Plông, với cấu trúc đô thị hiện đại, trung tâm phát triển nông nghiệp - công nghệ cao, du lịch bản sắc; tiên phong - dẫn dắt - lan tỏa phát triển; đầu tàu hội nhập trong phát triển của huyện Kon Plông và đầu mối kết nối phát triển phía Bắc vùng Tây Nguyên với các địa bàn phát triển ngoài Tây Nguyên. Đến năm 2025, thị trấn Măng Đen phấn đấu tiệm cận các thị trấn/ thị xã trung bình trực thuộc huyện trên địa bàn tỉnh Kon Tum
về các hạ tầng thiết yếu và những yếu tố cạnh tranh nền tảng; đến năm 2030 phấn đấu trở thành“đô thị sinh thái”.
Hoa anh đào nở trên hồ Đăk Ke.
Theo đó, khát vọng phát triển của đô thị Măng Đen là: phát triển nhanh, chất lượng cao, hướng tới một đô thị cao nguyên đặc sắc - bản sắc đại ngàn (Xanh, Trung thực, Công bằng và Phóng khoáng) - thông minh, sánh vai quốc tế, bao gồm:
i) Về kinh tế: là “hạt nhân phát triển”, là tâm điểm/đầu mối kết nối phát triển và là “đầu tàu kinh tế” - góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của huyện Kon Plông; là trụ cột tăng trưởng nhanh và bền vững ở các lĩnh vực nổi bật: nông nghiệp công nghệ cao và du lịch.
ii) Về văn hóa - xã hội: là trung tâm giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, y tế, văn hóa của huyện Kon Plông; là điểm đến nổi bật trong bản đồ du lịch Việt Nam.
1Quyết định số 298/QĐ-TTg ngày 05/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về: “Quy hoạch xây dựng vùng du lịch sinh thái Măng Đen và quy hoạch chung đô thị Kon Plông, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum đến năm 2030”.
Các mục tiêu đầy tham vọng nêu trên chỉ đạt được nếu: (1) có sự đồng thuận của chính quyền và nhân dân; (2) sự hợp tác chặt chẽ với các địa phương trong huyện Kon Plông nói riêng, tỉnh Kon Tum nói chung; (3) tháo gỡ những “nút thắt” thể chế với sự quan tâm đúng mức của tỉnh Kon Tum, huyện Kon Plông tập trung dành nguồn lực cần thiết cho thị trấn Măng Đen - tạo đột phá phát triển cũng như các xã khác trong huyện phát triển nhanh hơn, thu hẹp khoảng cách phát triển.
Vì vậy, định hướng xây dựng thị trấn Măng Đen trở thành “đô thị sinh thái” với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường, liên kết và phân bố hợp lý trên địa bàn, xâm phạm ít nhất đến môi trường tự nhiên; đa dạng hóa việc sử dụng đất, chức năng đô thị và các hoạt động khác của con người; xây dựng hệ thống đô thị được khép kín và tự cân bằng; giữ cho sự phát triển dân số đô thị và tiềm năng của môi trường được cân bằng một cách tối ưu, đảm bảo để đô thị phát triển theo hướng bền vững. Tính hiện đại và phát triển theo hướng bền vững là đặc trưng nổi bật của đô thị Măng Đen - với tư cách là một đô thị thuộc huyện Kon Plông, thể hiện qua các yếu
tố chủ yếu sau:
i) Thể chế vận hành đô thị có “đẳng cấp” vượt trội, bảo đảm minh bạch, công khai và công bằng; thực hiện thông qua bộ máy chính quyền đô thị. Cơ cấu kinh tế định hướng phát triển với nông nghiệp công nghệ cao, du lịch. Gắn với cơ cấu kinh tế là hệ thống hạ tầng kết nối (giao thông - thông tin) hiện đại.
ii) Đô thị Măng Đen là “đô thị sinh thái” có bản sắc văn hóa, tính nhân văn (nghĩa tình và nghĩa hiệp), hòa hợp với môi trường thiên nhiên, là đô thị “xanh” (sinh thái), sử dụng năng lượng sạch/hiệu quả (năng lượng mặt trời, năng lượng gió…), một đô thị “đáng sống”, có sức hấp dẫn mạnh mẽ với tầng lớp trung lưu.
iii) Dân cư đô thị: có phong cách sống văn minh - văn hóa, với quy mô dân số và cơ cấu dân cư hợp lý (không bị quá tải, chất lượng cao).
iv) Các điều kiện bảo đảm: giao thông kết nối hiện đại và thông suốt từ hệ thống đường giao thông hiện có được nâng cấp. Không có sự phân biệt địa giới hành chính và không có nút thắt tắc nghẽn giao thương. Là đô thị dẫn đầu đổi mới sáng tạo, hình thành và kết nối các chức năng phát triển kinh tế - xã hội giữa các xã trên địa bàn huyện Kon Plông cũng như tỉnh Kon Tum.
Để xây dựng thị trấn Măng Đen trở thành “đô thị sinh thái”, hiện đại và theo hướng bền vững, cần thực hiện đồng bộ một hệ thống các giải pháp, có thể bao gồm:
Một là, đảm bảo quy hoạch, thiết kế, đầu tư và quản lý đô thị Măng Đen một cách toàn diện và tích hợp, chuyển từ những mục tiêu đơn lẻ và ngắn hạn sang các giải pháp tổng thể, đa mục tiêu và dài hạn. Ví dụ, có thể quy hoạch khu vực phía Bắc là trung tâm hành chính của huyện Kon Plông - về cơ bản giữ nguyên, cải tạo và chỉnh trang về kiến trúc tạo sự thống nhất và có bản sắc của vùng Tây Nguyên. Khu vực phía Nam phát triển trung tâm mới (thị trấn Măng Đen) bao gồm: khu vực hành chính, thương mại, dịch vụ và các khu vực chức năng với quan điểm: Xây dựng mậtđộ cao và các công trình có khối tích lớn trong khu vực trung tâm thương mại; các khu vực ở và dịch vụ du lịch khác xây dựng có mật độ thấp để đảm bảo không gian cây xanh. Khu vực nông thôn áp dụng mô hình khu dân cư khu vực nông thôn với 3 loại: Mô hình dân cư nông nghiệp, mô hình dân cư lâm nghiệp, và mô hình kinh tế trang trại nông nghiệp. Khu vực phía Tây giáp khu vực nội thị tập trung phát triển du lịch. Ngoàira là vùng sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp côngnghệ cao1.
Hai là, chất lượng cuộc sống của cư dân trên địa bàn được nâng cao; thực hiện chính sách cũng như đảm bảo an sinh và phúc lợi xã hội, các chính sách bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ cho người dân; hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở… làm cơ sở quan trọng cho hoạt động đô thị mang lại hiệu quả cao hơn, từng bước góp phần xây dựng nên bản sắc hiện đại của đô thị Măng Đen trong mối tương quan với các đô thị của các huyện trên địa bàn tỉnh Kon Tum cũng như các địa phương khác của khu vực Tây Nguyên.
Ba là, sử dụng đất hợp lý (hài hòa giữa quy mô dân số với diện tích đô thị để có phương án kiến trúc, xây dựng và cơ sở hạ tầng phù hợp), bố trí các công trình công cộng như: công viên cây xanh với không gian mở, sân vận động thể dục - thể thao, hành lang cho người đi bộ - xe đạp,… dọc trên tuyến đường và khu vực trung tâm huyện, cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, khu nhà ở mới,
khu chợ... góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực. Nâng cấp hệ thống giao thông hiện có, phương tiện giao thông đa dạng gắn kết các khu dân cư cũ với các khu quy hoạch mới trên địa bàn thị trấn Măng Đen... chính là một trong những yếu tố tạo nên bản sắc của “đô thị sinh thái”.
Bốn là, phát triển hài hoà các thiết chế văn hoá trên địa bàn, kết hợp giữa các yếu tố hiện đại và truyền thống, chú trọng kế thừa tính địa phương và tính văn hoá, lịch sử đặc thù của đô thị vớiviệc duy trì các làng đồng bào dân tộc nằm trong khu vực thị trấn Măng Đen. Bảo tồn và phát huybản sắc văn hoá tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng đời sống văn hoá mới. Sự đa tầng văn hóa vàlịch sử được kết hợp khi xây dựng các công trình và cách thức mà sự đa tầng này là hiện thân chocác nghi thức của con người sống trong những thắng cảnh giàu bản sắc văn hóa vùng Tây Nguyên.
Năm là, mô hình “đô thị sinh thái” cần được xem như một phương thức quản lý quy hoạch đô thị nhằm phát triển kinh tế song song với bảo tồn môi sinh, môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống… với mục tiêu góp phần tăng trưởng kinh tế đô thị.
4. Kết luận
Xét về vị trí, về chiến lược, thị trấn Măng Đen có nhiều ưu thế trong xây dựng đô thị giai
đoạn đến năm 2030 theo mô hình “đô thị sinh thái”, hiện đại và là hạt nhân liên kết/lan toả phát triển trên địa bàn huyện Kon Plông đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững, đạt được các giá trị về văn hóa, văn minh và tạo nên sự độc đáo riêng. Trở thành “đô thị sinh thái” cần được bắt nguồntừ sự đồng thuận của người dân, của toàn xã hội. Cư dân sống trong các khu dân cư, khu đô thị 1 Định hướng đầu tư phát triển sản xuất nhóm cây trồng rau hoa quả cao cấp; một số loại cây thực phẩm, cây
dược liệu quý hiếm, như rau, hoa, cà phê xứ lạnh, sâm Ngọc linh và các loại cây dược liệu khác... mới có thể chủ động thiết lập và phát huy bản sắc đô thị. Theo đó, họ cần thấy mình là một phần quan trọng của đô thị và nơi họ đang sống là mục tiêu cần thiết trong xu thế phát triển đô thị hiện nay. Hệ thống hạ tầng, cấu trúc nhà ở tận dụng không gian, hệ thống dịch vụ, cùng môi trường tự nhiên đáp ứng các điều kiện xây dựng đô thị phát triển… Đặc biệt, để “đô thị sinh thái” Măng Đen có thể tạo nên bản sắc riêng vốn có của nó, bản sắc con người và bản sắc tự nhiên phải được kết hợp một cách hài hòa, theo đó cần có hệ thống quy hoạch minh bạch, tinh thần hợp tác và tầm
nhìn trong quản lý đô thị hiện đại hướng đến sự phát triển bền vững.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng bộ huyện Kon Plông (2020), Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ huyện Kon
Plông nhiệm kỳ 2015-2020 và phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2020-2025, Kon Plông.
2. Nguyễn Trọng Phượng (2008), Môi trường đô thị, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
3. Quyết định số 298/QĐ-TTg ngày 05/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về: “Quy hoạch
xây dựng vùng du lịch sinh thái Măng Đen và quy hoạch chung đô thị Kon Plông, huyện Kon
Klông, tỉnh Kon Tum đến năm 2030”.
4. Nghị quyết số 720/NQ-UBTVQH14 ngày 16 tháng 7 năm 2019 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về việc thành lập thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum.
5. Lưu Đức Hải (2012), “Đô thị sinh thái”, Tạp chí Quy hoạch Đô thị, số 5, 2011.
http://thanhhoacpi.vn/tin-tuc/moi-truong/do-thi-sinh-thai/185. Truy cập ngày 1/8/2021.
6. UBND huyện Kon Plông (2020), Số liệu thống kê kinh tế - xã hội huyện Kon Plông, tỉnh
Kon Tum giai đoạn 2015-2020, Kon Klông.
7. UBND thị trấn Măng Đen (2020), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH,
QPAN năm 2020; kế hoạch phát triển KT-XH, QPAN năm 2021, Kon Plông.
8. https://www.urbanisme.equipement.gouv.fr/cdu/accueil/bibliographies/developpementdu
rable/note4.htm, 18/08/2006.
9. Bùi Kiến Quốc (2006). Đô thị sinh thái. https://tiasang.com.vn/-van-hoa/do-thi-sinh-thai-
1399/, truy cập ngày
PGS.TS NGUYỄN XUÂN DŨNG
TS, TRẦN THỊ VÂN ANH
Các tin khác
Dùng phế phẩm sản xuất dung dịch tẩy rửa hữu cơ thân thiện môi trường
MTXD - Nhóm bạn trẻ đã sử dụng các loại nguyên liệu từ rác hữu cơ như các loại rau xanh, vỏ trái cây và mật mía làm nguyên liệu tạo dung dịch enzyme tẩy rửa đa năng an toàn cho người sử dụng và góp phần bảo vệ môi trường.
Đề xuất quy hoạch hệ thống đô thị - nông thôn tích hợp vào Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030 tầm nhìn 2050
MTXD - Nghị quyết số 06-NQ/TW về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô...
12 công trình được xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh
MTXD - Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về khoa học công nghệ đợt 6 được Bộ Khoa học và Công nghệ - cơ quan Thường trực Giải thưởng triển khai từ tháng 12/2020. Giải thưởng lần này được trao cho 29 công trình nghiên cứu có giá trị cao và khả năng ứng dụng thực tiễn.
Chuyển đổi năng lượng tại Việt Nam - Hướng tới Công bằng và phát triển bền vững
MTXD - Sáng nay 22/11 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cùng với Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã tổ chức Hội thảo Khoa học quốc tế "Chuyển đổi năng lượng hướng tới công bằng và phát triển bền vững".