Gốm mộc gọi người về
MTXD - Hơn chục năm trở về trước, những lò gốm mộc ở Phổ Khánh đã chẳng còn đỏ lửa, bây giờ dẫu đã qua cái thời hưng thịnh, xứ gốm này đã thu nhỏ lại, nhưng nghề cũ vẫn níu tay người. Non 10 hộ làm gốm bây giờ vẫn giữ được nghề và gợi lại hồn cốt thủa nào.
Gốm gọi người về
Dùng mảnh tre chuốt phẳng mặt gốm chưa nung, anh Lê Phương Nam là thợ gốm trẻ tuổi, cũng là chủ một cơ sở gốm đang ăn nên làm ra ở xã Phổ Khánh (thị xã Đức Phổ, Quảng Ngãi) nở nụ cười nhọc nhằn nhưng viên mãn. Nam bảo “Gốm gọi tôi về!”. Chỉ thế thôi, cũng đủ thấy sức hút của gốm với anh thợ trẻ tuổi này nhiều đến nhường nào. Tháng 7, chưa đến sáu giờ sáng mà nắng đã đổ đầy sân cơ sở gốm Lê Phương Nam ở thôn Trung Sơn (xã Phổ Khánh). Thợ gốm đã lục tục kéo đến, để bắt đầu một ngày làm việc. Người xén đất, tưới nước, nhào trộn. Người thu dọn số gốm của ngày hôm trước, chuyển sang một sân phơi khác, để lấy chỗ “ra lò” cho những sản phẩm gốm mới.
Người làm gốm Phổ Khánh với tay nghề gốm mộc thủ công vẫn cần mẫn giữ nghề.
Khoảng chừng 300 năm trước, gốm Phổ Khánh được rất nhiều nơi ưa chuộng. Làng gốm lúc nào cũng đỏ lửa, huỳnh huỵch tiếng người nhào đất, rộn ràng tiếng củi lửa lò nung, xôn xao tiếng bán mua trao đổi, rầm rập tiếng chân người vận chuyển hàng. Gốm của Phổ Khánh, với hai làng chính chuyên sản xuất đồ gốm là làng Trung Sơn và Vĩnh An. Thay vì các loại gốm láng men mịn, với hoa văn màu sắc sặc sỡ bắt mắt, thì gốm Phổ Khánh lại có nét đặc trưng riêng. Cái nét riêng ấy, như anh Nam bảo là sự độc đáo của gốm Sa Huỳnh. Văn hóa Sa Huỳnh là một nền văn hóa cổ có niên đại cách đây 3500-2000 năm. Đặc trưng của văn hóa Sa Huỳnh là táng thức mộ chum được làm bằng gốm Sa Huỳnh thuộc giai đoạn gốm tiền sử trong tiến trình gốm sứ Việt Nam. Và điểm đặc biệt của gốm Sa Huỳnh phong phú về loại hình, đa dạng về kiểu dáng và nguồn nguyên liệu được lấy ngay tại nơi cư dân Sa Huỳnh cư trú. Đó là các loại hình chum, nồi, bình, bát đĩa… với phong cách chế tác đồ gốm độc đáo, thể hiện văn hoá của các cư dân vùng duyên hải Việt Nam từ hậu kỳ đá mới đến thời đại sắt sớm. Nhưng tất cả, vẫn là gốm mộc, không láng men như các loại gốm ở nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng khác trên khắp cả nước.
Trước những đơn hàng lớn, nhiều máy móc cũng được vận dụng để sản xuất.
Sự độc đáo ấy, cũng từng một thời trầy trật, bởi quy luật của thị trường, khi mà những sản phẩm gốm sứ trong nước được trau chuốt hơn, đẹp hơn và đa dạng hơn, cùng với đó là cơn bão của đồ gốm sứ giá rẻ từ Trung Quốc ùa về chiếm lĩnh thị trường, khiến cho gốm mộc Phổ Khánh rơi vào thời kỳ lận đận. Hơn chục năm trở về trước, những lò gốm mộc ở Phổ Khánh đã chẳng còn đỏ lửa, người làm gốm ở hai làng đi ra đi vào nhìn nhau, nhìn lò nung mà chan nước mắt, nhìn những sản phẩm làm ra không ai mua mà lòng buồn hiu hắt. Gốm làm ra, cuối cùng chỉ được tiêu thụ rất ít ở trong vùng, sức mua cũng chẳng đáng kể. Nhiều người đã nghĩ có lẽ gốm mộc chẳng còn đất sống nữa. Đất bỏ khuôn, người bỏ gốm, củi lửa bỏ lò nung, những vệt đường sẽ thôi tiếng chân vào ra chọn gốm. Viễn cảnh biến mất một làng nghề mấy trăm năm tuổi cứ dồn nén, ầng ậng trong mắt nhìn của những người thợ, của những người yêu gốm mộc. Bởi chẳng ai có thể ngờ được ngày này...
Mỗi sản phẩm làng nghề đều được khắc tên, như một cách quảng bá cho sản phẩm đồ gốm Phổ Khánh.
Trong tí tách lửa lò nung, chủ nhân của lò gốm là anh Lê Phương Nam mới chưa đầy 30 tuổi đau đáu với những ngày như thế của làng gốm. Nam vốn học chuyên ngành công nghệ thông tin, từng có một công việc ổn định ở TP.Hồ Chí Minh với mức lương kha khá, có thể sống ổn định ở chốn phố thị phồn hoa. Nhưng cách đây 5 năm, anh rời đô thị lớn nhất nước, về quê "cắm đầu" cho lò gốm của cha mình. Như cái cách anh kể, khi gốm gọi anh về, anh chỉ có hai bàn tay và tình yêu với gốm. Nơi này, cha anh và người làng đã một đời với gốm, cùng ăn ngủ với đất, cùng tha thiết với khuôn đúc, cùng chuếnh choáng với bàn xoay. Anh về, với tâm thế muốn khôi phục lại làng gốm xưa.
Xuất thân từ đất gốm, chẳng khó khăn gì để anh bắt đầu lại từ đầu. Gốm, như chảy trong máu thịt, như bản năng của người nên nghề gốm xoay vần với anh ngày lại ngày. Từ anh chàng trắng trẻo làm việc văn phòng, anh trần mình với gốm, lúc nào cũng chân lấm, tay bùn. Khâu nào khó nhất trong quy trình làm gốm là anh đảm nhiệm. Và tất nhiên, lò gốm của anh cũng quy tụ những người làm gốm có nghề trong làng.
Lửa lò nung đã đỏ trở lại, giúp gốm Phổ Khánh có chỗ đứng hơn trên thị trường.
Ngày anh về, với quyết tâm mở lại lò gốm, quyết tâm khôi phục lại tiếng tăm gốm Phổ Khánh một thời, nhiều người đã không tin. Bởi ở đất gốm này, nhiều người đã thử, đã tìm nhiều cách, đã gặp nhiều thất bại. Những người lớn tuổi, những người thạo nghề, những người sống cả đời với gốm khi nghe anh trình bày đã thêm một lần gửi niềm tin vào chàng trai trẻ. Kiến thức chuyên ngành công nghệ thông tin chẳng liên quan gì đến trộn đất, nặn gốm, vào lò, nung gốm, nhưng Nam lại biến nó thành công cụ hữu ích để mang lại danh tiếng cho gốm mộc Phổ Khánh. “Công nghệ giúp gốm Phổ Khánh tìm được nhiều bạn hàng, tạo đầu ra cho gốm. giúp gốm ở nơi này được nhiều người biết đến hơn và cũng quảng bá được văn hóa gốm của địa phương”, nam hào hứng chia sẻ như thế.
Và mấy năm nay, gốm mộc Phổ Khánh đã bắt đầu được tiêu thụ rộng rãi hơn.
Người còn, nghề không mất
Bên Quốc lộ 1 ngang qua thị xã Đức Phổ, nhiều người sẽ thấy phía trước là cửa hàng trưng bày sản phẩm, còn phía sau là nơi sản xuất gốm. Gốm vẫn ra lò và chuyển đi nhiều tỉnh, thành tiêu thụ. Người làng gốm lúc nào cũng chân lấm, tay bùn. Khâu nào khó nhất trong quy trình làm gốm là do những người lão luyện trong làng đảm nhiệm. Với cách sắp xếp khoa học, có những lò gốm khoảng 2.500 sản phẩm một làm trong 1 – 2 ngày là xong. Thời gian nung gốm kéo dài 14 tiếng. Sau đó là thời gian dành cho việc kiểm tra lại các sản phẩm, chuẩn bị cho mẻ nung tiếp theo.
Từ gần 300 cơ sở làm gốm thời hưng thịnh, 2 làng gốm Trung Sơn và Vĩnh An của xã Phổ Khánh chỉ còn gần chục hộ làm nghề. Nhưng, đó là những hộ sản xuất bền vững, với đầu ra ổn định. Những lò gốm như lò của anh Nam, hay lò của anh Nguyễn Tấn Hợp... là những lò gốm lớn nhất xứ này, với hàng nghìn sản phẩm mỗi ngày.
Gốm Phổ Khánh mang đậm chất văn hóa Sa Huỳnh, cái nôi của gốm cổ hàng ngàn năm.
Lò nung đỏ lửa trở lại, những người thợ làm gốm có tay nghề cao cũng lục tục trở lại nghề. Những thợ gốm có thâm niên vài chục năm như ông Huỳnh Văn Út, bà Lê Thị Chương, bà Nguyễn Thị Nin, bà Nguyễn Thị Quang... cùng hàng chục người khác. Chưa kể, số lượng người trẻ hướng về nghề gốm cũng ngày một đông thêm. Cùng với đó, đời sống người dân cũng ngày một khá hơn, nhiều người bắt đầu quay về với những mỹ vị dân gian. Thị trường gốm mộc bắt đầu quay trở lại với những đơn đặt hàng từ những nhà hàng cơm niêu, những khu resort mang đâm phong cách đồng quê, những quán ăn mang âm hưởng dân gian với những loại thực phẩm được chế biến trong những sản phẩm gốm như nồi đất, niêu cá, ấm trà, ấm sắc thuốc, khuôn đúc bánh xèo... và những sản phẩm thủ công lại càng được nhiều người ưa chuộng hơn. Và gốm Phổ Khánh bắt đầu nhiều đơn đặt hàng hơn trước. Nhiều lao động trong lò gốm chỉ ước có được nhiều việc làm, mong gốm bán được nhiều hơn, và nhiều người biết tới gốm mộc Phổ Khánh hơn.
Tưởng chừng đã lụi tàn, nhưng những sản phẩm gốm Phổ Khánh được sản xuất ngày càng nhiều.
Làng nghề làm gốm ở Phổ Khánh nổi tiếng một thời dẫu ngày nay không còn hưng thịnh, nhưng vẫn được khách hàng ưa chuộng là do giữ được kỹ thuật làm nghề. Để có được sản phẩm như nồi, niêu, trách, trả, ấm... vừa thanh và chín đều, vừa đẹp lại vừa bền, người thợ phải thận trọng trong từng công đoạn. Bà Nguyễn Thị Quang, người hơn 30 năm làm gốm bộc bạch, để làm gốm mộc tưởng chừng đơn giản nhưng thực sự cũng lắm công phu. Trước hết, phải chọn đất sét vàng, đất sét xanh đem về phơi thật khô rồi đập, sàng lấy đất mịn, nhào nặn, tạo hình, chuốt, phơi khô rồi đem nung. Mỗi công đoạn đều phải đúng kỹ thuật, nguyên liệu đất sét phải biết pha trộn 2 đất xanh, 8 đất vàng rồi nhào nặn, chuốt đều, công phu tỉ mẩn mới tạo ra sản phẩm đẹp và bền. Muốn có sản phẩm đẹp phải chuốt cho thật đều. Mỗi ngày bà nặn khoảng vài trăm cái trả, thu nhập vài trăm nghìn đồng. Với người dân quê, đây là mức thu nhập cao. Nhưng ở cái lò gốm này không phải ai cũng giỏi và thạo nghề như bà Quang cả. Có nhiều người chỉ thu nhập khoảng 60.000 đồng/ngày, nhưng nghề gốm vốn như ăn vào máu thịt, hằng ngày họ vẫn tới đây để làm.
Bà Nguyễn Thị Hiền, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Phổ Khánh cho rằng, tỉnh công nhận là làng gốm truyền thống nhưng làng gốm Phổ Khánh chưa có thương hiệu. Vì vậy, tỉnh cần quan tâm để gốm Phổ Khánh có thương hiệu cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời, có chính sách hỗ trợ để làng gốm có cơ hội hồi sinh trở lại. Đến nay, gốm Phổ Khánh đã có thị trường tiêu thụ ổn định, giải quyết việc làm cho hàng chục lao động. “Để giữ gìn, phát triển nghề truyền thống này, Ủy ban nhân dân xã Phổ Khánh đã đăng ký đây là sản phẩm OCOP. Chính quyền địa phương vận động người dân đầu tư mở rộng quy mô sản xuất; khuyến khích người dân duy trì sản xuất thủ công đồng thời với sản xuất bằng máy để vừa đáp ứng nhu cầu của thị trường vừa gìn giữ nghiệp tổ”, bà Hiền cho biết.
Anh Lê Phương Nam là thợ gốm trẻ tuổi, cũng là chủ một cơ sở gốm đang ăn nên làm ra ở xã Phổ Khánh
Mấy năm qua, những lò gốm của anh Nam, anh Phương, anh Hợp đã quy tụ được rất nhiều thợ lành nghề. Những người thợ này đến với nghề để mưu sinh và cũng góp phần giữ lấy nghề xưa mà cha ông mình đã từng gắn bó qua nhiều thế kỷ. Những lò gốm lớn ở Phổ Khánh bây giờ, đối với việc nặn, chuốt thủ công thường sẽ làm theo đơn đặt hàng cụ thể của khách hàng bởi đó là những sản phẩm hình dáng khác thường, đòi hỏi chất lượng và kỹ thuật cao, cũng như những yêu cầu nghiêm ngặt của khách hàng. Về khuôn mẫu cũng không phải là cứ sản xuất như trước đây nữa. Hầu hết đã hướng theo thị trường cần gì, lò gốm sản xuất thứ ấy. Hiện ở một số lò gốm có rất nhiều sản phẩm hình dáng khác thường, khó thể khép vào với tên gọi niêu, trả, trách hay ấm. Đó chính là sản phẩm làm theo đơn đặt hàng. Hầu hết loại hàng này đều làm thủ công. Còn các loại sản phẩm gốm thông dụng, đã được đúc khuôn, hình thức khá đẹp, đồng đều, da gốm láng mịn. Hiện tại, giá bình quân khoảng 15.000 đồng/sản phẩm. Trong đó, niêu cơm giá rẻ nhất, chỉ khoảng 5.000 – 7.000 đồng; trả đất, ấm và bếp lò giá cao hơn và cao nhất là 40.000 đồng/sản phẩm. Bà Nguyễn Thị Nin cho biết, một người thợ thủ công nếu làm một tháng khoảng 3.000 sản phẩm đủ để đưa vào nung một lò. Nung sau 24 giờ là mở lò mang sản phẩm đem bán, trừ chi phí thu được 2,5-3 triệu đồng. Tính ra ngày công khoảng 100.000 đồng không lớn nhưng thợ thủ công có thêm việc làm, nhất là lưu giữ được nghề xưa.
Với các loại sản phẩm gốm thông dụng, người làm gốm cho đúc khuôn với hình thức khá đẹp, đồng đều, da gốm láng mịn. Hình thức sản phẩm gốm bền đẹp, giá trị sử dụng cao, giữ được nét văn hóa truyền thồng nên khách hàng khắp các tỉnh, thành trong cả nước ưa chuộng, đặt hàng. Gốm Phổ Khánh bây giờ đã xuất bán các tỉnh bạn như Quảng Nam, Đà Nẵng, Huế, Quảng Trị...xa hơn là vào các tỉnh phía Nam hay ngược ra các tỉnh phía Bắc. Làng nghề tưởng tàn lụi dưới cơn lốc thị trường, giờ đã đỏ lửa trở lại và tìm về thời hưng thịnh thủa xưa. Thu nhập tuy không cao nhưng họ vẫn quyết tâm giữ nghề truyền thống này.
Dẫu vậy, nghề gốm xứ này lại đang phải đối mặt với một vấn đề nan giải, đó là nguồn nguyên liệu đất sét. Hiện tại tất cả các lò gốm ở Phổ Khánh đều mua đất ở Phổ Cường, nhưng giá đất sét mỗi ngày đang tăng rất mạnh. Chủ mỏ đất thông tin đến các lò gốm là thực hiện chủ trương hạn chế khai thác đất sét. Khi nguồn cung hạn chế, dẫn đến giá đất trên thị trường tăng cao. Từ 1,25 triệu, nay tăng lên 1,75 triệu đồng/m3, nhưng không phải có tiền là mua được. Chính vì vậy, nhiều lò gốm đang phải tìm kiếm nguồn nguyên liệu đất sét ở nhiều nơi.
Tiêu Dao
Các tin khác
Yên Mô – Ninh Bình: Nâng cao chất lượng cuộc sống từ xây dựng nông thôn mới tại xã Yên Lâm
MTXD - Sau khi đạt chuẩn NTM nâng cao vào năm 2021, cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị từ xã đến các thôn, xóm đã tập trung mọi nguồn lực, huy động sự vào cuộc của nhân dân đến năm 2024 xã Yên Lâm, huyện Yên Mô đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu.
Hiện thực hóa quy hoạch đô thị sông Hồng
MTXD - Có thể nói Hà Nội ngày nay đang hội tụ đầy đủ trong mình nhiều yếu tố gồm cả thế và lực để hiện thực hóa khát vọng, hiện thực hóa mục tiêu xây dựng không gian hai bên sông Hồng trở thành “Biểu tượng phát triển mới của Thủ đô”.
Đô thị nén sự lựa chọn hình thái của các đô thị phát triển theo hướng sinh thái ở Việt Nam
MTXD - QCVN 01:2019 đã làm rõ nội dung về kiểm soát mật độ dân số trong các đồ án quy...
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khẩn trương ứng phó bão số 3
MTXD - Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Công điện số 86/CĐ-TTg ngày 3-9-2024 chỉ đạo các bộ ngành, địa phương khẩn trương triển khai ứng phó bão số 3 năm 2024.