Một số suy nghĩ về điều chỉnh tổng thể quy hoạch chung xây dựng Thủ đô

MTXD - Quá trình thực hiện Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 đã bộc lộ một số vấn đề trong việc dự báo phát triển tại những khu vực phát triển mới.

MTXD - Quá trình thực hiện Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 đã bộc lộ một số vấn đề trong việc dự báo phát triển tại những khu vực phát triển mới. Đồng thời một số vấn đề mà quy hoạch tại thời điểm trước đây chưa được đề cập sâu nhưng nay trở thành một xu thế phát triển tất yếu của đô thị hiện đại như khai thác không gian ngầm, nhất là không gian công cộng ngầm; phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng (TOD),…

Luật Quy hoạch ra đời đã tác động tới nhiều văn bản pháp luật khác liên quan đến quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị đòi hỏi phải rà soát lại Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô một cách đầy đủ và đánh giá chính xác tiềm năng phát triển của từng khu vực để đưa ra các dự báo mang tính khoa học, phù hợp với quy luật phát triển thay vì áp đặt theo lý trí, trên cơ sở đối chiếu với pháp luật mới, chủ trương mới của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 05/5/2022 về Phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Luật Quy hoạch ra đời đòi hỏi phải rà soát lại Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô một cách đầy đủ

1.Bối cảnh chung:

Năm 2008, Quốc hội khóa XII ban hành Nghị quyết số 15/2008/QH12 về việc điều chỉnh địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội, qua đó sáp nhật tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và một số xã thuộc huyện Lương Sơn của tỉnh Hòa Bình vào Thủ đô, đưa Hà Nội trở thành Thủ đô lớn thứ 17 thế giới về diện tích.

Điều này đặt ra cho Hà Nội những yêu cầu phát triển mới. Sau khi sáp nhập, nhiều sự biến động về kinh tế, xã hội, văn hóa, đặc biệt về không gian đô thị, hạ tầng đô thị, mô hình phát triển và nhiều vấn đề khác. Quy hoạch chung Hà Nội cần được xem xét lại để đáp ứng những yêu cầu mới và phù hợp với bối cảnh phát triển của Quốc gia và của Thủ đô. Quá trình thực hiện Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 đã bộc lộ một số vấn đề trong việc dự báo phát triển tại những khu vực phát triển mới. Đồng thời một số vấn đề mà quy hoạch tại thời điểm trước đây chưa được đề cập sâu nhưng nay trở thành một xu thế phát triển tất yếu của đô thị hiện đại như khai thác không gian ngầm, nhất là không gian công

cộng ngầm; phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng (TOD),… Năm 2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1259/QĐ-TTg ngày 26/7/2011 phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 với các quan điểm:

- Nâng cao vị thế của Thủ đô Hà Nội trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương để Hà Nội xứng đáng là Thủ đô của một nước có trên 100 triệu dân ở thế kỷ 21.

 - Phát triển Thủ đô Hà Nội đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với phát triển hệ thống đô thị toàn quốc, hệ thống đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và vùng Thủ đô Hà Nội; xây dựng Hà Nội trở thành động lực thúc đẩy kinh tế-xã hội các vùng khác trong cả nước.

Hà Nội, khu vực mới phát triển. ảnh internet

- Quy hoạch đô thị Hà Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập và thu hút đầu tư; đảm bảo tính linh hoạt và hiệu quả của nền kinh tế thị trường; ưu tiên phát triển các ngành, lĩnh vực tạo thế và lực xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật khung và ngành kinh tế mũi nhọn tạo động lực phát triển Thủ đô; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xây dựng và phát triển các lĩnh vực xã hội, giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, hạ tầng kỹ thuật với quản lý đô thị theo quy hoạch.

- Phát triển Thủ đô Hà Nội bền vững, gắn kết giữa phát triển kinh tế với sử dụng tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái và văn hóa lịch sử truyền thống. Tạo lập diện mạo kiến trúc đô thị đặc trưng của Thủ đô ngàn năm văn hiến.

- Phát triển Thủ đô gắn với ổn định chính trị và an ninh, quốc phòng. - Nghiên cứu Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội toàn diện trên nhiều lĩnh vực đảm bảo phát triển kinh tế, kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ.

Mô hình phát triển không gian của Thủ đô được quy hoạch theo mô hình chùm đô thị, gồm đô thị trung tâm và các đô thị vệ tinh, được liên kết bằng hệ thống giao thông vành đai kết hợp các trục hướng tâm, có mối liên kết với mạng lưới giao thông vùng Thủ đô và quốc gia. Đây là mô hình phù hợp với xu hướng chung của các nước đang phát triển, phù hợp với thực tế phát triển của Thủ đô Hà Nội hiện nay và tương lai.

Đổi mới cấu trúc đô thị từ “Đơn cực” sang “Đa cực”; đảm bảo cho đô thị trung tâm sẽ được giảm tải căn bản với một số chức năng đang bị dồn nén quá mức như công nghiệp, dịch vụ, thương mại, giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao... khi các chức năng này được phân tán bớt, hoặc chuyển hẳn vào các đô thị vệ tinh và tạo nên các trung tâm mới. Hình thành các thành phố vệ tinh được gắn kết với nhau và với đô thị trung tâm bằng các kết nối nhanh thông qua hệ thống giao thông công cộng mạnh, viễn thông và các hạ tầng kỹ thuật khác. Đảm bảo tính hoạt động độc lập của các đô thị trong mạng lưới.

Xây dựng các chiến lược phát triển để đưa Thủ đô Hà Nội trở thành một thành phố “Xanh – Văn hiến – Văn minh – Hiện đại”. Tăng cường bản sắc, hình ảnh riêng về Thành phố bằng cách thiết lập trục không gian gồm “mặt nước”, “cây xanh” và “văn hoá”, phấn đấu 70% diện tích mở rộng của Thành phố được dành cho không gian xanh kết hợp phát triển nông, lâm nghiệp theo hướng chất lượng cao và công nghiệp hóa.

Hình 1. Cấu trúc đô thị của Thủ đô Hà Nội

Từ năm 2017, Luật Quy hoạch ra đời (có hiệu lực bắt đầu từ năm 2019) đã tác động mạnh mẽ, làm thay đổi đáng kể đến hệ thống văn bản pháp luật về quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị, đòi hỏi phải có những điều chỉnh để phù hợp.

Đồng thời, các vấn đề về phát triển đô thị tăng trưởng xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; xu hướng phát triển đô thị theo hướng đô thị thông minh bền vững, khai thác, phát huy các tiềm năng và lợi thế, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, hạn chế các rủi ro và nguy cơ tiềm tàng. Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô cần có định hướng cơ bản phát triển đô thị thông minh để phù hợp với mục tiêu chung và tạo hành lang pháp lý để triển khai các đồ án quy hoạch, dự án đầu tư xây dựng hướng tới phát triển đô thị thông minh bền vững.

Trên cơ sở ý kiến của Bộ Xây dựng thống nhất với đề xuất của UBND Thành phố Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận chủ trương điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 tại văn bản số 383/TTg-CN ngày 26/3/2021.

2. Rà soát Quy hoạch chung:

2.1. Đánh giá chung:

Quá trình triển khai thực hiện theo Quy hoạch chung được duyệt, Thành phố đã đạt được một số kết quả nhất định: Các đồ án quy hoạch, cụ thể hóa Quy hoạch chung, được duyệt đã đáp ứng được yêu cầu phục vụ đầu tư xây dựng và quản lý đô thị trên địa bàn Thành phố, phát triển KT-XH Thủ đô. Công tác quy hoạch, xây dựng và quản lý đất đai, quản lý đô thị, trật tự, kỷ cương xã hội được tăng cường. Nếp sống văn minh đô thị có chuyển biến tích cực.

Về cơ bản, diện mạo Thủ đô đã có nhiều thay đổi. Đô thị Hà Nội từng bước được hiện đại hoá và vị thế của Thủ đô ngày càng được nâng cao trong phạm vi toàn quốc, khu vực và quốc tế. Tại Khu vực đô thị trung tâm, bộ mặt đô thị đã chuyển biến tích cực, cảnh quan đô thị được nâng cao; đã hình thành một số Khu đô thị lớn, hoàn chỉnh từ quy hoạch cấu trúc tổng thể, kiến trúc không gian, chi tiết cảnh quan và dịch vụ xã hội khép kín. Một số đơn vị cấp huyện ngoại thành Hà Nội có tốc độ đô thị hóa nhanh. Hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội được quan tâm đầu tư; Xây dựng nông thôn mới đạt kết quả nổi bật. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị được đầu tư, nâng cấp, dần hoàn thiện; Xử lý rác thải, nước thải, ô nhiễm ao, hồ... đang được cải thiện đáng kể...

Bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế cần tiếp tục khắc phục:

(1) Chưa phát huy được vai trò, tiềm năng, thế mạnh và chưa thể hiện được vai trò dẫn dắt của Đô thị trung tâm trong Vùng Thủ đô.

(2) Quy mô dân số toàn Thành phố đã vượt ngưỡng dự báo, nhưng tỷ lệ dân số đô thị chưa đạt theo quy hoạch, điều này cho thấy việc phát triển đô thị theo quy hoạch còn nhiều khó khăn, bất cập.

(3) Phát triển đô thị chưa đồng đều và chưa tương xứng với tiềm năng; Việc phát triển mở rộng đô thị trung tâm (khu vực Mê Linh - Đông Anh và Hoài Đức - Đan Phượng) còn chậm. Chưa hình thành được các đô thị vệ tinh theo quy hoạch.

(4) Hành lang hai bên sông Hồng chưa phát triển được theo định hướng quy hoạch là trở thành trục xanh trung tâm, phát triển thành phố hai bên sông. (5) Phát triển kết cấu hạ tầng đô thị (nhất là giao thông) chưa theo kịp tốc độ phát triển đô thị, tính đồng bộ chưa cao. Tiến độ đầu tư kết cấu giao thông còn chậm. Tỷ lệ đất dành cho giao thông, tỷ lệ vận tải hành khách bằng phương tiện công cộng chưa đạt kế hoạch.

(6) Tiến độ, kết quả thực hiện một số đồ án, nhiệm vụ liên quan đến công tác quy hoạch còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ đầu tư dự án trọng điểm, hạ tầng đô thị, phát triển đô thị. Nhiều quy hoạch được lập chưa coi trọng việc tính toán các chỉ tiêu dự báo, tính liên kết, chưa theo kịp tình hình phát triển KT-XH nên thiếu tính khả thi. Chất lượng quy hoạch còn bộc lộ một số mặt hạn chế do tầm nhìn đặt ra trong từng giai đoạn và thực tế phát triển KT-XH. Công tác quản lý, tổ chức thực hiện quy hoạch chưa được phân công, phân cấp trách nhiệm rõ ràng, nhất là đối với cấp huyện.

2.2. Các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch:

Ngoài những vấn đề mang tính khách quan như sự thay đổi của các văn bản pháp luật, những chủ trương phát triển đô thị trong bối cảnh hướng tới phát triển đô thị xanh, thông minh,… qua quá trình rà soát, đặc biệt là quá trình triển khai thực hiện theo Quy hoạch chung, một số vấn đề phát sinh từ nội tại bản thân đồ án Quy hoạch chung cần phải được xem xét để đảm bảo tính khả thi cao hơn. Trong số đó chỉ xin nêu 02 vấn đề có thể được xem là yếu tố quan trọng có tính quyết định, tác động tới định hướng của đồ án. *

Vấn đề về dân số:

Để cụ thể hóa định hướng Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, UBND Thành phố Hà Nội đã tổ chức lập các đồ án Quy hoạch phân khu đô thị (QHPK). Qua quá trình rà soát, thống kê dân số tại các đồ án, các có thể thấy, quan điểm của QHPK là tuân thủ định hướng Quy hoạch chung, nên quy mô dân số được xác định đến năm 2030 và năm 2050 cơ bản phù hợp theo phân bổ từng vùng phát triển đô thị (Hình 2) được dự báo trong đồ án Quy hoạch chung.

Hình 2. Sơ đồ các khu vực phát triển đô thị theo QHC 1259

Tuy nhiên, thực tế biến động dân số tại thời điểm nghiên cứu lập các QHPK được đánh giá trên cơ sở thực tiễn dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn từng khu vực phát triển đô thị có khác nhau. Một số khu vực có quy mô dân số dự báo đến năm 2020 đã vượt rất xa ngưỡng khống chế của quy hoạch. Cụ thể khu vực nội đô lịch sử dự kiến đến năm 2030 phải giảm dân số còn 800.000 người, nhưng đến nay, quy mô dân số đã vượt ngưỡng 1,2 triệu dân, việc giảm 1/3 dân số để đến năm 2030 đạt ngưỡng khống chế ở mức 800.000 dân như Quy hoạch chung và 730.000 dân (năm 2050) như QHPK cần được xem xét và có luận chứng để thực hiện.Khu vực nội đô mở rộng, thuộc chuỗi các phân khu đô thị từ H2-1 đến H2-4 là khu vực chủ yếu thuộc các quận được thành lập và hoàn thành các quy hoạch chi tiết quận, huyện tỷ lệ 1/2000; 1/5000 khoảng từ sau năm 1998, là thời kỳ nền kinh tế bắt đầu đi vào ổn định và phát triển. Đây cũng là khu vực được đô thị hóa mạnh mẽ theo định hướng của Quy hoạch chung 108 1 (giai đoạn phát triển đợt đầu đến năm 2010), với nhiều dự án đầu tư về hạ tầng kỹ thuật như đường vành đai 3, đường vành đai 3 trên cao, đường 32, đường 6, Đại lộ Thăng Long; các công trình quan trọng của Quốc gia và Thành phố như Khu Liên hợp thể thao quốc gia (Mỹ Đình), Trung tâm Hội nghị quốc gia, công viên Hòa Bình, BigC Thăng Long, Metro và các khu đô thị mới như Mỹ Đình 1, Mỹ Đình 2, Mỹ Đình – Mễ Trì, Dịch Vọng, Nam Trung Yên,… Quá trình phát triển đô thị nhanh chóng khiến quy mô dân số tăng đột biến, ảnh hướng lớn tới nhiều vấn đề như trường học, y tế, giao thông, thoát nước,… Theo các QHPK được UBND Thành phố phê duyệt, quy mô dân số năm 2020 tại khu vực nội đô mở rộng khoảng 1,78 triệu người, vượt xấp xỉ 1,8 lần quy mô dân số dự báo theo Quy hoạch chung. Sau khi các đồ án QHPK được duyệt với quy mô dân số dự báo theo định hướng Quy hoạch chung làm cho khu vực này cũng gặp phải tình trạng giống như khu vực nội đô lịch sử là phải giải quyết vấn đề cân bằng dân số để giảm thiểu các nguy cơ trong tương lai. Để xác định rõ yếu tố chính tác động đến vấn đề dân số cần xem xét thêm về các chỉ tiêu quy hoạch.

* Vấn đề về chỉ tiêu:

 Các chỉ tiêu sử dụng đất có liên quan trực tiếp đến quy mô dân số; điều này thể hiện rõ ở các chỉ tiêu đạt được trong các đồ án QHPK. Các phân khu thuộc nội đô mở rộng có chỉ tiêu sử dụng đất hạ tầng xã hội như công cộng, cây xanh, trường học ở giai đoạn phát triển đợt đầu đến năm 2020 rất thấp (do quy mô dân số quá cao) dẫn đến phải áp dụng chỉ tiêu trong đô thị cải tạo, ngay cả đối với các khu đô thị mới.

Quy mô dân số tăng cao trong khi quỹ đất là hữu hạn khiến cho việc bố trí các công trình hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật phục vụ đô thị gặp khó khăn trong việc đảm bảo bán kính phục vụ, nhất là vấn đề đảm bảo đủ quy mô theo quy định. Đối với các phân khu thuộc khu vực phát triển mới (Khu phía Đông Vành đai 4, Khu phía Bắc sông Hồng) lại xảy tình trạng ngược lại. Quy mô dân số thấp khiến cho chỉ tiêu sử dụng đất của một số loại đất cao hơn định mức tại Quy chuẩn. Ví dụ như chỉ tiêu đất dân dụng, đất cây xanh đô thị, đất công cộng đô thị, đất đơn vị ở tại các phân khu đô thị phía Bắc sông Hồng cao hơn định mức tại Quy chuẩn từ 1,2 đến 9,2 lần. Điều này khiến hiệu quả sử dụng đất không cao.

* Nhận xét chung về vấn đề dân số và các chỉ tiêu:

- Qua rà soát quá trình cụ thể hóa Quy hoạch chung 1259 từ các đồ án QHPK trong phạm vi đô thị trung tâm xuất hiện vấn đề mất cân đối trong phân bổ dân số và sử dụng đất đai giữa các khu vực.

- Khu vực nội đô mở rộng: Dân số tăng cao một phần do không kiểm soát tốt việc phát triển dự án xây dựng nhà ở thương mại dẫn đến thiếu quỹ đất hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật.

- Khu vực phát triển mới (phía Bắc sông Hồng và phía Đông Vành đai 4): Từ các số liệu tại các QHPK cho thấy hiệu quả sử dụng đất thấp, thiếu sức hút đầu tư làm giảm khả năng cạnh tranh đối với khu vực nội đô, cần xem xét cân đối lại quy mô dân số hoặc quy mô đất đai.

3. Định hướng nghiên cứu điều chỉnh Quy hoạch chung:

3.1. Một số định hướng chính:

Qua rà soát Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, một số vấn đề mới cần được xem xét để nghiên cứu bổ sung khi lập điều chỉnh quy hoạch:

(1) Xác định cơ sở dữ liệu kinh tế - xã hội, nguồn lực đầu tư phát triển và đặc biệt là tầm nhìn dài hạn cho sự phát triển Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với đô thị thông minh, công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, gắn với phát triển văn hoá, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Thủ đô, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững Thủ đô.

(2) Nghiên cứu, rà soát, định hình lại các chỉ tiêu về dân số, mật độ cư trú và phân bổ dân số phù hợp với tình hình thực tiễn triển khai.

(3) Nghiên cứu lại mô hình cấu trúc đô thị để điều chỉnh cho phù hợp, đáp ứng khả năng phát triển mô hình “Thành phố thuộc Thủ đô”.

(4) Nghiên cứu hoàn chỉnh, tái cấu trúc không gian chức năng, hạ tầng khu vực đô thị trung tâm trong chùm đô thị Thủ đô và chùm hệ thống đô thị trong Vùng Thủ đô:

- Nghiên cứu cấu trúc không gian lấy trục sông Hồng là trục xanh làm trung tâm phát triển, phát triển cân đối không gian hai bên sông Hồng và phát triển phía Bắc sông Hồng thành đô thị hiện đại, đồng bộ hạ tầng để trở thành động lực phát triển.

- Định hướng cơ bản khu vực hành lang xanh sông Hồng, sông Đuống là trục không gian cảnh quan chủ đạo của thành phố, gắn với trục hồ Tây

- Cổ Loa, tạo trọng tâm bố cục không gian cho đô thị trung tâm Hà Nội.

(5) Nghiên cứu quy hoạch xây dựng - phát triển hạ tầng kinh tế-xã hội tại khu vực huyện dự kiến thành quận giai đoạn 2025-2030 và những năm tiếp theo, gắn với phát triển đô thị xanh, bền vững hai bên trục đường Vành đai 4, tạo không gian chuyển tiếp giữa khu vực đô thị và nông thôn.

(6) Xem xét xác định lại tỷ trọng cơ cấu khu vực đất phát triển đô thị và nông thôn. Kết hợp với những nội dung nghiên cứu của Chương trình phát triển đô thị toàn Thành phố đến năm 2030, định hướng đến năm 2050 để đánh giá khả năng, quy mô và lộ trình đô thị hóa của các địa phương thuộc đô thị trung tâm theo định hướng của Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô.

(7) Rà soát để xác định lại mô hình và lộ trình phát triển các đô thị vệ tinh để có kế hoạch tập trung nguồn lực đầu tư theo thứ tự ưu tiên, trên cơ sở đó điều chỉnh quy mô quy hoạch (diện tích, dân số) đối với các đô thị ưu tiên phát triển nhằm đáp ứng các tiêu chí đơn vị hành chính cấp thành phố thuộc thành phố Hà Nội.

(8) Nghiên cứu hoàn chỉnh đồng bộ mạng lưới hạ tầng kỹ thuật đô thị: - Nghiên cứu hoàn chỉnh và đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông đô thị (đường cao tốc, kết nối liên vùng, đô thị, vành đai, cầu qua sông, tỉnh lộ…), đường sắt đô thị gắn với mô hình TOD; phát triển các loại hình vận tải hành khách công cộng. Nghiên cứu bổ sung các tuyến đường sắt nội vùng hoặc Bus nhanh (BRT) kết nối Đô thị trung tâm với các đô thị vệ tinh. Mở rộng, nâng cấp sân bay quốc tế Nội Bài; nghiên cứu sân bay thứ hai cho Vùng Thủ đô Hà Nội.

- Trên cơ sở Quy hoạch Vùng Thủ đô xem xét lại các quy hoạch về giao thông, thủy lợi, thoát nước, nghĩa trang,… phù hợp với các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, đô thị thông minh và tăng trưởng xanh; đề xuất các biện pháp ứng phó, giảm thiểu tác động biến đổi khí hậu đến đồ án quy hoạch.

- Dự báo chính xác số liệu; khớp nối thống nhất giữa các nghiên cứu; xác định hợp lý vị trí, quy mô, tính chất các công trình đầu mối đảm bảo tính khả thi khi triển khai, dây truyền công nghệ.

3.2. Giải pháp trọng tâm:

(1) Ưu tiên hiện đại hóa, phát triển nhanh và đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, xây dựng các công trình tiêu biểu, không gian kiến trúc cảnh quan đặc sắc, mang đặc trưng của Thủ đô. Huy động mọi nguồn lực, tập trung đầu tư xây dựng, phát triển đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của Thủ đô.

(2) Điều tiết lại cấu trúc chùm đô thị và cân đối nguồn lực đầu tư để xác định lại lộ trình và lựa chọn đô thị vệ tinh để ưu tiên nguồn lực phát triển.

(3) Phát triển đô thị gắn với định hướng phát triển giao thông công cộng (TOD) nhằm khai thác hiệu quả quỹ đất, hiệu quả đầu tư, hiệu quả hệ thống giao thông công cộng khối lượng lớn và quản lý việc phát triển dọc các tuyến giao thông chính.

4. Kết luận:

Sau 10 năm thực hiện theo Quy hoạch chung được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, mặc dù có những thành tựu nhất định nhưng kết quả thực tiễn chưa được như mục tiêu đặt ra cho giai đoạn phát triển đợt đầu. Một số định hướng cần được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn, đảm bảo tính khả thi. Đồng thời sự chi phối của Luật Quy hoạch với phương pháp tích hợp quy hoạch đòi hỏi quy hoạch đô thị cũng cần có sự thay đổi trong phương pháp luận tư duy quy hoạch. Đảm bảo khớp nối đồng bộ với đồ án Quy hoạch Thủ đô thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Nhiệm vụ lập quy hoạch. Quy hoạch này là quy hoạch cấp trên của Quy hoạch chung đô thị nhưng được triển khai đồng thời, vì vậy giữa 2 quy hoạch cần có sự phối hợp đồng bộ và thống nhất để đảm bảo tiến độ lập quy hoạch, cũng là tiến độ phát triển đô thị theo định hướng quy hoạch đến năm 2030.

Các định hướng cho điều chỉnh Quy hoạch chung sắp tới cũng đã được pháp lý hóa bằng Nghị quyết số 15- NQ/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, làm cơ sở nghiên cứu phù hợp với chủ trương chung của Đảng và Nhà nước, nhanh chóng đưa Hà Nội trở thành động lực dẫn dắt cho Vùng đồng bằng sông Hồng, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước.

KTS. TRẦN DUY

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Thuyết minh đồ án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.

Báo cáo rà soát, đánh giá Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 – Sở Quy hoạch-Kiến trúc Hà Nội – 10/2021.

Báo cáo rà soát tình hình lập, triển khai các quy hoạch có liên quan, các dự án đầu tư theo quy hoạch được duyệt và kế hoạch thực hiện quy hoạch; đánh giá dân số hiện trạng, dân số theo quy hoạch được duyệt và khả năng phát triển – Viện Quy hoạch xây dựng Hà Nội - 2021.

Từ khóa Điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung, Rà soát quy hoạch Hà Nội, Định hướng nghiên cứu điều chỉnh quy hoạch chung.

(1). Đồ án Điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 108/1998/QĐ-TTg ngày 20/6/1998.

 

Các tin khác

Tạp chí đang tạm dừng hoạt động theo quyết định của cơ quan chủ quản để hoàn thiện công tác nhân sự.
Yên Mô – Ninh Bình: Nâng cao chất lượng cuộc sống từ xây dựng nông thôn mới tại xã Yên Lâm
Yên Mô – Ninh Bình: Nâng cao chất lượng cuộc sống từ xây dựng nông thôn mới tại xã Yên Lâm

MTXD - Sau khi đạt chuẩn NTM nâng cao vào năm 2021, cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị từ xã đến các thôn, xóm đã tập trung mọi nguồn lực, huy động sự vào cuộc của nhân dân đến năm 2024 xã Yên Lâm, huyện Yên Mô đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu.

Hiện thực hóa quy hoạch đô thị sông Hồng
Hiện thực hóa quy hoạch đô thị sông Hồng

MTXD - Có thể nói Hà Nội ngày nay đang hội tụ đầy đủ trong mình nhiều yếu tố gồm cả thế và lực để hiện thực hóa khát vọng, hiện thực hóa mục tiêu xây dựng không gian hai bên sông Hồng trở thành “Biểu tượng phát triển mới của Thủ đô”.

Đô thị nén sự lựa chọn hình thái của các đô thị phát triển theo hướng sinh thái ở Việt Nam
Đô thị nén sự lựa chọn hình thái của các đô thị phát triển theo hướng sinh thái ở Việt Nam

MTXD - QCVN 01:2019 đã làm rõ nội dung về kiểm soát mật độ dân số trong các đồ án quy...

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khẩn trương ứng phó bão số 3
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khẩn trương ứng phó bão số 3

​MTXD - Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Công điện số 86/CĐ-TTg ngày 3-9-2024 chỉ đạo các bộ ngành, địa phương khẩn trương triển khai ứng phó bão số 3 năm 2024.