Nạn nhân chất độc da cam ở Việt Nam – nỗi đau còn day dứt
MTXD - Chiến tranh đã lùi xa, song hàng triệu người dân Việt Nam và những thế hệ thứ ba, thứ tư sinh ra trong hòa bình vẫn hằng ngày phải mang trong mình di họa của cuộc chiến ấy - phơi nhiễm chất độc da cam/dioxin do Mỹ rải xuống khắp chiến trường miền Nam Việt Nam là nỗi đau day dứt thức tỉnh lương tri yêu chuộng hòa bình.
Ngày 10/8/1961 ghi dấu việc Mỹ bắt đầu rải chất độc da cam, một trong những hóa chất độc hại nhất với con người từng được biết đến, ở Việt Nam nhằm giành ưu thế trong chiến tranh.
Thùng sơn màu cam là chứa CĐDC
Chất độc màu da cam/dioxin là cụm từ chỉ các chất độc chứa dioxin, loại chất diệt cỏ được xếp vào nhóm độc tố nguy hiểm nhất thế giới, không chỉ bởi khả năng gieo rắc cái chết mà còn cả những di chứng để lại cho nhiều đời sau. Cái tên chất độc da cam xuất phát từ các thùng có sơn màu da cam, dùng để vận chuyển loại chất diệt cỏ này.
Vào năm 1961, tình hình chiến tranh Việt Nam diễn tiến theo chiều hướng khiến chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) và Mỹ vô cùng lo ngại. Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm là người đầu tiên đề nghị Mỹ dùng chất độc da cam làm vũ khí đẩy lui lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam.
Ngày 12/4/1961, Tổng thống Mỹ John F. Kennedy nhận được một bản kiến nghị về hoạt động quân sự tại Việt Nam, bao gồm cả đề xuất sử dụng chất độc da cam.
Ngay sau đó, Phó Tổng thống Mỹ B.Johnson tới Sài Gòn và cho thành lập Trung tâm nghiên cứu quân sự nhằm phát triển các loại vũ khí mới, trong đó có việc sử dụng hóa chất này để hủy diệt những khu rừng, chặn đường ẩn náu và cung cấp lương thảo, vũ khí của quân đội miền bắc Việt Nam.
Bộ Quốc phòng Mỹ nhìn chung ủng hộ kế hoạch, với lí do chất diệt cỏ là phương tiện hiệu quả và kinh tế nhất để phá hủy những khu rừng. Song, một số nhân vật có ảnh hưởng trong Bộ Ngoại giao Mỹ, nổi bật là Roger Hilsman và Averell Harriman, lại kiên quyết phản đối ý định. Họ lo ngại chiến dịch có thể ảnh hưởng xấu đến quan hệ giữa Mỹ với người dân Việt Nam và khiến Mỹ bị buộc tội xúc tiến một dạng chiến tranh hóa học.
Máy bay Mỹ rải chất độc da cam/dioxin trong chiến tranh Việt Nam.
Tuy nhiên, Washington rốt cuộc vẫn phê chuẩn việc sử dụng chất độc da cam/dioxin. Ngày 10/8/1961, Mỹ lần đầu tiên điều máy bay H34 phun rải chất độc này theo con lộ 14 thuộc tỉnh Kon Tum của Việt Nam, mở đầu cho hành động hủy diệt tàn bạo kéo dài hơn 10 năm sau đó.
Ngày 24/8/1961, Ngô Đình Diệm tiếp tục cho rải thử nghiệm chất độc da cam ở miền nam Việt Nam và đến tháng 11 cùng năm, Tổng thống Mỹ Kennedy ra lệnh chính thức tiến hành chiến dịch Ranch Hand, sử dụng độc chất này với quy mô lớn chưa từng thấy ở bất kỳ đâu trên thế giới. Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ không chỉ dùng các loại bom đạn gây thương vong mà còn sử dụng cả chất độc hoá học nhằm triệt hạ nguồn sinh sống của nhân dân Việt Nam, ngăn chặn bước tiến của các lực lượng vũ trang cách mạng.
Thực tế chứng minh, cuộc chiến tranh hóa học do Mỹ tiến hành ở Việt Nam là cuộc chiến tranh có quy mô lớn nhất, dài ngày nhất, gây hậu quả thảm khốc nhất trong lịch sử loài người.
Từ năm 1961 - 1971, quân đội Mỹ đã tiến hành 19.905 phi vụ, phun rải khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học, 61% trong đó là chất da cam, chứa 366 kg dioxin xuống các cánh rừng, các thôn ấp, các khu đất trồng trọt với tổng diện tích 3,06 triệu ha, gần bằng ¼ tổng diện tích miền Nam Việt Nam, vượt gấp 17 lần mật độ cho phép sử dụng trong nông nghiệp Mỹ; trong đó có 86% diện tích bị phun rải hơn 2 lần, 11% diện tích bị phun rải hơn 10 lần. Chỉ riêng khu vực A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, theo tài liệu được Bộ Quốc phòng Mỹ công bố, khối lượng chất da cam rải xuống đây khoảng 434.812 gallon, với một lượng dioxin khoảng 11 kg trong khoảng thời gian từ năm 1965-1970.
Chất độc da cam đã tác động mạnh mẽ, lâu dài tới môi trường, các hệ sinh thái và sức khỏe con người.
Với một lượng khổng lồ chất độc hóa học phun rải lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, môi trường bị ô nhiễm nặng nề, các hệ sinh thái bị đảo lộn; chức năng giữ nước chống lụt của rừng bị suy giảm; đa dạng sinh học bị suy thoái và trở nên nghèo nàn; một số loài động vật thực vật quý hiếm bị tuyệt chủng; các loài gậm nhấm và cỏ dại phát triển. Hệ thống rừng ngập mặn ở miền Nam, nhất là ở Rừng Sác, phía Đông Bắc Sài Gòn và ở huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau bị phá hủy nặng nề; vai trò của rừng ngập mặn trong giữ đất, lấn biển bị giảm sút.
Hai bé gái đang đi qua khu rừng đước bị chất độc da cam hủy hoại.
Tại các sân bay quân sự của Mỹ trước đây dùng để lưu giữ, pha trộn, tiêu hủy chất độc hóa học, nồng độ dioxin vẫn còn cao hoặc rất cao, đặc biệt tại các sân bay: Đà Nẵng, Biên Hòa và Phù Cát. Năm 2011, nồng độ dioxin trong khu ô nhiễm tại sân bay Biên Hòa cao nhất là 963.000 tpp – TEQ; trong máu của một người dân kinh doanh và thu hoạch hải sản bị nhiễm dioxin tại đây là 2.020 tpp – TEQ (trong khi nồng độ cho phép trong máu ở một số nước công nghiệp phát triển là từ 0,4 đến 0,7 tpp – TEQ).
Chất độc da cam (CĐDC) đã làm cho 4,8 triệu người Việt Nam bị phơi nhiễm, hơn 3 triệu người là nạn nhân, gây nên biết bao thảm cảnh mà nhiều thế hệ người Việt Nam phải hứng chịu. Hàng trăm nghìn nạn nhân đã chết, hàng trăm nghìn người đang vật lộn với bệnh tật hiểm nghèo. Các kết quả nghiên cứu ở Việt Nam và thế giới cho thấy, chất độc da cam/dioxin có khả năng gây tổn thương đa dạng và phức tạp trên tất cả các bộ máy sinh lý của cơ thể, gây ung thư da, tổn thương da, gan, tuyến giáp, đái tháo đường; làm tổn thương hệ thống hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, nội tiết, thần kinh; có vai trò quan trọng gây đột biến gen và nhiễm sắc thể, từ đó gây nên các dị tật bẩm sinh, các tai biến sinh sản. Các bệnh phổ biến ở con, cháu nạn nhân CĐDC là liệt hoàn toàn hay một phần cơ thể, mù, câm, điếc, thiểu năng trí tuệ, tâm thần, ung thư, dị dạng, dị tật bẩm sinh.
Người mẹ đang phải chăm hai đứa con bị di chứng chất độc da cam
Đặc biệt là CĐDC có thể di truyền qua nhiều thế hệ và ở Việt Nam, di chứng da cam đã truyền sang thế hệ thứ 4. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, hiện cả nước có khoảng 75.000 nạn nhân thuộc thế hệ thứ 2; 35.000 nạn nhân thuộc thế hệ thứ 3; qua khảo sát tại một số địa phương, hậu quả CĐDC đã di nhiễm sang thế hệ thứ 4.
Ở nhiều tỉnh, trong số nạn nhân, có hơn một nửa là dân thường (Kon Tum, Quảng Nam, Quảng Ngãi, tỉ lệ dân thường so với tổng số nạn nhân là 70,7%, 75,4%, 67,9%); 85% số hộ có 2 nạn nhân trở lên, 3% số hộ có 5 nạn nhân trở lên.
Một em bé bị tật bẩm sinh vì phơi nhiễm chất độc da cam
Đời sống vật chất, tinh thần của nạn nhân còn rất khó khăn, thiếu thốn, nhất là những gia đình có nhiều nạn nhân, nhiều thế hệ nạn nhân, nạn nhân bị bệnh nặng, bệnh hiểm nghèo, bệnh thường xuyên tái phát, sinh con dị dạng, dị tật, thiểu năng trí tuệ; nhiều nạn nhân là dân thường không còn khả năng lao động sản xuất, không có nguồn thu. Đa số hộ nạn nhân chất độc da cam thuộc hộ nghèo (tỉ lệ hộ gia đình nạn nhân nghèo chiếm khoảng 50- 60%, ở vùng sâu vùng xa khoảng 70%). Mức chi phí nuôi dưỡng, chữa bệnh cho nạn nhân rất lớn, vượt ra ngoài khả năng thanh toán của gia đình. Có thể nói: "Nạn nhân CĐDC là những người nghèo nhất trong những người nghèo, những người đau khổ nhất trong những người đau khổ".
Không chỉ người Việt Nam mà nhiều lính Mỹ, Hàn Quốc, Australia, New Zealand…từng tham chiến ở Việt Nam trước đây cũng mắc nhiều bệnh tật do phơi nhiễm CĐDC. Theo Đô đốc Elmo Zumwalt - nguyên Tư lệnh các lực lượng Hải quân Mỹ ở Việt Nam (1968 - 1970), có ít nhất 2,6 triệu lượt binh sĩ Mỹ bị phơi nhiễm CĐDC. Theo Hội Cựu chiến binh thương tật do chất da cam Hàn Quốc, có khoảng 100 nghìn/300 nghìn lượt binh sĩ Hàn Quốc tham chiến ở Việt Nam là nạn nhân, trong đó hơn 20 nghìn người đã chết.
Khắc phục hậu quả đối với môi trường
CĐDC phun rải trong chiến tranh sau hơn 40 năm về cơ bản đã bị mưa, nắng rửa trôi, hoặc đã phát tán ra môi trường. Tuy nhiên, ô nhiễm tại các khu căn cứ cũ của Mỹ và đồng minh, nơi tập trung, pha chế, đổ thải, chôn lấp, tiêu hủy CĐDC vẫn còn rất nặng nề, chứa nhiều nguy cơ tiềm ẩn gây tác hại đến môi trường, sinh thái và con người.
Theo nghiên cứu của Công ty Hatfield Consultants, West Vancouver Canada (2004-2009), tại miền Nam Việt nam, sau chiến tranh còn khoảng 28 "điểm nóng" có nguy cơ tiềm ẩn gây tác hại đến môi trường, sinh thái và con người; trong đó có các điểm ô nhiễm nặng đã được xác định ưu tiên xử lý là sân bay Đà Nẵng, sân bay Biên Hòa (Đồng Nai), sân bay Phù Cát ( Bình Định) và sân bay A So (Thừa Thiên- Huế).
Đảng và Nhà nước đã có nhiều chỉ đạo hoạt động khoa học và nỗ lực hợp tác nghiên cứu tẩy độc, khắc phục ô nhiễm CĐDC/dioxin tại các "điểm nóng". Kết quả như sau:
Tại sân bay Đà Nẵng: Tháng 8/2012 Cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) cùng Bộ Quốc phòng Việt Nam khởi động Dự án xử lý môi trường ô nhiễm dioxin tại sân bay Đà Nẵng bằng công nghệ giải hấp nhiệt trong mố. Cơ quan chủ quản dự án là Bộ Quốc phòng Việt Nam; đối tác thực hiện là Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID); nguồn vốn 110 triệu USD từ nguồn ODA không hoàn lại của Chính phủ Hoa Kỳ và 60 tỷ đồng vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam; thời gian thực hiện từ năm 2012 đến năm 2019. Kết quả, dự án đã xử lý triệt để khoảng 90.000 m3 đất, trầm tích nhiễm dioxin; cô lập, quản lý an toàn khoảng 50.000 m3 đất, trầm tích nhiễm dioxin nồng độ thấp.
USAID và Bộ Quốc phòng Việt Nam đã tiến hành lấy mẫu đất, trầm tích sau xử lý để khẳng định kết quả xử lý đạt mục tiêu làm sạch là 150 phần nghìn tỷ (ppt). Đất sau xử lý Giai đoạn 1 (kết thúc cuối năm 2015) có nồng độ dioxin thấp hơn 9 ppt và Giai đoạn 2 (kết thúc cuối năm 2018) có nồng độ thấp hơn (<1 ppt), tức là vượt các mục tiêu đã đề ra của dự án. Hơn 32 ha đất sau khi xử lý được bàn giao kịp thời để thực hiện việc xây dựng mở rộng sân bay Đà Nẵng, bảo đảm an toàn sức khỏe người dân, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.
Tại sân bay Phù Cát (Bình Định): Trên cơ sở kết quả khảo sát đánh giá mức độ ô nhiễm và quy hoạch sử dụng đất trong sân bay, căn cứ vào điều kiện thực tế, năm 2012, Văn phòng Ban Chỉ đạo 33 (Bộ Tài nguyên và Môi trường) phối hợp với Quỹ Môi trường toàn cầu Quốc tế (GEF) thông qua Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam đã hỗ trợ hơn 5 triệu USD cho Việt Nam sử dụng công nghệ chôn lấp cô lập hơn 7.500m3 đất ô nhiễm có nồng độ ô nhiễm trên 1.000ppt theo tiêu chuẩn quy định của Việt Nam và Cục Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (USEPA). Công trình đã xây dựng Hệ thống quan trắc nước ngầm, nước mặt và không khí, cho thấy nồng độ các chất thải ô nhiễm trong các khu vực dưới ngưỡng cho phép, không còn nguy cơ tác hại đến môi trường, sinh thái và con người.
Tại sân bay Biên Hòa (Đồng Nai): Theo kết quả khảo sát và nghiên cứu khoa học, mức độ ô nhiễm chất độc hóa học tại sân bay Biên Hòa là nặng nề và phức tạp nhất. Tổng số đất, trầm tích ô nhiễm vượt ngưỡng cho phép cần phải xử lý khoảng 500.000m3, trong đó có hai khu đã được Bộ Quốc phòng xử lý bằng công nghệ chôn lấp. Năm 2013 - 2014, thông qua UNDP, Tổ chức GEF đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng công trình chống lan tỏa tạm thời dioxin trong khu vực liên quan đến khoảng 120.000 người dân đang sinh sống trong vùng có nguy cơ cao chịu tác hại của ô nhiễm.
Từ năm 1995-2016, Bộ Tư lệnh Hóa học đã thực hiện 02 dự án đánh giá mức độ tồn lưu chất độc dioxin, khoanh vùng, chống lan tỏa, xác định một số giải pháp công nghệ xử lý đất nhiễm chất độc hóa học/dioxin. Khối lượng đất nhiễm dioxin được chôn lấp, cô lập ở sân bay Biên Hòa khoảng 150.000m3 với kinh phí khoảng gần 150 tỷ đồng. Từ năm 2013-2015, cũng trong khuôn khổ dự án GEF/UNDP, Văn phòng Ban Chỉ đạo 33/Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng công trình chống lan tỏa tại khu vực Pacer Ivy (là khu vực tập kết các thùng chứa CĐDC đã và chưa sử dụng để đưa về Mỹ, hoặc các nơi khác theo Chương trình Pacer Ivy); hợp tác với Chính phủ Cộng hòa Séc xây dựng hệ thống quan trắc nước ngầm tại các khu vực chôn lấp, cô lập ở sân bay Biên Hòa nhằm quan trắc các thông số về môi trường.
Từ năm 2013-2015, Viện Khoa học và Công nghệ quân sự Bộ Quốc phòng đã phối hợp với USAID thực hiện việc đánh giá môi trường khu vực sân bay Biên Hòa nhằm xác định phạm vi, mức độ, quy mô ô nhiễm và đề xuất phương án công nghệ xử lý triệt để. Từ năm 2017-2019, Bộ Tư lệnh Phòng không- Không quân thực hiện dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và tiền xử lý chất độc hóa học tại sân bay Biên Hòa với kinh phí bảo đảm là 270 tỷ đồng. Dự án nhằm chuẩn bị cho việc xử lý tổng thể dioxin tại sân bay này, gồm các hạng mục: Cải tạo đường vận chuyển phục vụ xử lý dioxin; xây dựng công trình chống lan tỏa, cách ly khu vực bị ô nhiễm.
Ngày 17/4/2019, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 425/QĐ-TTg ngày phê duyệt chủ trương đầu tư dự án xử lý ô nhiễm dioxin ở khu vực Sân bay Biên Hòa. Ngày 6/9/2029, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng ký Quyết định số 3869/QĐ-BQP phê duyệt đầu tư dự án và giao Bộ Tư lệnh Phòng không-Không quân làm chủ đầu tư.
Ngày 5/12/2019, Bộ Quốc phòng Việt Nam và Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) khởi công thực hiện Dự án xử lý dioxin tại khu vực sân bay Biên Hòa. Dự kiến thời gian thực hiện dự án là 10 năm, kinh phí là 390 triệu USD. Phía Mỹ đã cam kết chi 183 triệu USD cho Giai đoạn 1 (2020-2024).
Tại sân bay A So ( Thừa Thiên Huế) : Dự án xử lý đất nhiễm chất độc dioxin tại sân bay A So, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế được Bộ Quốc phòng phê duyệt tại Quyết định số 1025/QĐ-BQP ngày 30/3/2020, đồng thời giao Bộ Tư lệnh Hóa học làm chủ đầu tư, với tổng vốn đầu tư 76,4 tỷ đồng (ngân sách Nhà nước chi cho sự nghiệp môi trường) ; thời gian thực hiện từ năm 2020 đến năm 2022. Tổng khối lượng đất ô nhiễm dioxin phải xử lý là 35.000 m3, trong đó khoảng 6.600 m3 đất nhiễm có nồng độ ô nhiễm trên 200ppt. Bộ Tư lệnh Hóa học giao Trung tâm Hành động quốc gia xử lý chất độc hóa học và môi trường (NACCET) là cơ quan trực tiếp chủ trì và thiết kế công nghệ cho dự án để đưa vào áp dụng xử lý đất nhiễm dioxin tại sân bay A So. Dự án được Bộ Tư lệnh Hóa học tổ chức khởi công ngày 2/10/2020.
Xử lý đất nhiễm độc dioxin tại sân bay A So
Khắc phục hậu quả đối với sức khỏe con người và chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân CĐDC
Hàng năm, Nhà nước đã dành khoản ngân sách hơn 10.000 tỉ đồng để trợ cấp hàng tháng, chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng cho nạn nhân CĐDC, hỗ trợ những vùng đặc biệt khó khăn do bị ảnh hưởng nặng nề của CĐDC.
Hiện toàn quốc có hơn 320.000 người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm CĐHH được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Các hộ gia đình có người khuyết tật, trong đó có hộ gia đình nạn nhân CĐDC được hưởng bảo hiểm y tế hoặc khám chữa bệnh miễn phí. Hàng trăm ngàn lượt người khuyết tật nặng, trong đó có nạn nhân CĐDC được chỉnh hình, phục hồi chức năng; hàng chục ngàn trẻ em tàn tật, trong đó có trẻ em bị hậu quả gián tiếp của CĐDC được đi học trong các trường hòa nhập và chuyên biệt.
Hằng năm, Hội Nạn nhân CĐDC/dioxin các cấp đã vận động, huy động nguồn lực xã hội ở trong và ngoài nước trị giá hàng trăm tỷ đồng để giúp nạn nhân CĐDC làm nhà, sửa chữa nhà, xông hơi giải độc, phục hồi chức năng, khám chữa bệnh, dạy nghề, nuôi dưỡng, hỗ trợ học bổng, cho vay vốn sản xuất, tặng xe lăn, xe lắc, xe đạp, tặng quà nhân dịp lễ tết, Ngày Thương binh- Liệt sĩ 27/7, Ngày Vì nạn nhân CĐDC (10/8) hằng năm..., cùng nhiều dự án xây dựng các trung tâm bảo trợ xã hội...
Cả nước hiện có 12 Làng Hòa Bình, Làng Hữu Nghị và nhiều trung tâm nuôi dưỡng trẻ khuyết tật, theo hình thức tập trung hoặc bán trú, nuôi dưỡng hàng nghìn nạn nhân, chủ yếu là trẻ em dị dạng, dị tật do ảnh hưởng chất độc da cam. Hội nạn nhân CĐDC các cấp trong cả nước có 26 trung tâm bảo trợ xã hội thực hiện xông hơi giải độc, phục hồi chức năng, dạy nghề, nuôi dưỡng thường xuyên, hoặc bán trú các nạn nhân CĐDC.
Thăm hỏi tặng quà cho các nạn nhân CĐDC
Trung tâm tư vấn sức khỏe sinh sản di truyền tại Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh đã và đang hoạt động tích cực nhằm giảm tỉ lệ sinh con dị tật. Một số địa phương đã tiến hành điều tra tổn thương tâm lý và trợ giúp tâm lý cho nạn nhân CĐDC.
Hiện nay, Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ đang phối hợp với Trung tâm Hành động quốc gia khắc phục chất độc hóa học và môi trường (NACCET), Bộ Tư lệnh Hóa học xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Dự án hỗ trợ người khuyết tật tại các tỉnh bị phun rải nặng CĐHH.
Sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với công cuộc khắc phục hậu quả CĐHH ở Việt Nam
Trong công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh nói chung, chiến tranh hoá học nói riêng, nhân dân Việt Nam nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của nhân dân thế giới, bạn bè quốc tế. Ngay trong thời kỳ Mỹ đang tiến hành cuộc chiến tranh hoá học ở Việt Nam, các tổ chức và nhân dân thế giới đã phối hợp, hợp tác và giúp đỡ nhân dân Việt Nam tìm hiểu, nghiên cứu về tác hại của các loại vũ khí hoá học mà quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh.
Sự kiện nổi bật trong thời kỳ này là “Hội nghị các nhà khoa học quốc tế về chiến tranh hoá học ở Việt Nam” do Liên đoàn các nhà lao động khoa học thế giới tổ chức ở Orsay, Pháp năm 1970. Nghị quyết của hội nghị đã yêu cầu Mỹ phải ngừng ngay việc sử dụng CĐHH trong chiến tranh, đồng thời kêu gọi tất cả các tổ chức nghiên cứu khoa học trên thế giới phối hợp tổ chức các hình thức nghiên cứu khoa học thích hợp để hỗ trợ nhân dân Việt Nam nghiên cứu sâu hơn về tác hại của CĐHH và các phương tiện chống lại loại vũ khí đó.
Cùng với việc phối hợp, hợp tác nghiên cứu, đánh giá tác hại của CĐHH do quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh, chính phủ và nhân dân nhiều nước, nhiều tổ chức quốc tế đã tích cực ủng hộ, hỗ trợ nhân dân Việt Nam khắc phục hậu quả chiến tranh hoá học, giúp đỡ nạn nhân CĐDC.
Nhiều tổ chức quốc tế đã có các hình thức ủng hộ, hỗ trợ nạn nhân CĐDC Việt Nam như: Hội nghị Ban chấp hành của Hội đồng Hòa bình thế giới (WPC) họp ở Damas, Syria từ ngày 23-25/10/2009 đã quyết định lấy ngày 10/8 hằng năm là Ngày Vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam. Hội Luật gia dân chủ quốc tế (IADJ) đã tổ chức Toà án Công luận quốc tế xét xử 37 công ty hoá chất của Mỹ đã cung cấp chất độc hoá học cho quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam. WPC và AIDJ đã phối hợp với VAVA tổ chức nhiều diễn đàn tuyên truyền về hậu quả chất độc da cam ở Việt Nam và vận động ủng hộ nạn nhân chất độc da cam Việt Nam. Đại hội nhiệm kỳ hoặc các hội nghị của WPC và IADJ đều có nghị quyết ủng hộ nạn nhân chất độc da cam Việt Nam…
Nhiều tổ chức và cá nhân ở Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Anh và nhiều nước khác đã có sự phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam Việt Nam, ủng hộ cuộc đấu tranh đòi công lý của các nạn nhân.
Sự ủng hộ, sự hỗ trợ, giúp đỡ và hợp tác của cộng đồng quốc tế trong công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh hoá học ở Việt Nam có giá trị to lớn. Trước hết là giúp cho nhân dân thế giới hiểu rõ hơn hậu quả CĐHH do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam, từ đó tích cực hành động giúp đỡ nhân dân Việt Nam khắc phục hậu quả do chiến tranh hoá học gây ra, yêu cầu Chính phủ Mỹ phải tích cực tham gia khắc phục các hậu quả. Sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế về vật chất còn hạn chế, nhưng có tác dụng to lớn động viên, khích lệ tinh thần của các nạn nhân chiến tranh; nhắc nhở mọi người phải quan tâm, có trách nhiệm hơn đối với đồng bào của mình đang chịu hy sinh, mất mát, bệnh tật, đau khổ vì chiến tranh.
Sự phối hợp, tham gia của Chính phủ Mỹ khắc phục hậu quả CĐHH ở Việt Nam
Cùng với quan hệ song phương, sự phối hợp, hợp tác của Chính phủ Mỹ với Việt Nam khắc phục hậu quả CĐDC đã có những bước tiến đáng kể.
Tháng 3/2000, trong chuyến thăm Việt Nam, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ William Cohen tuyên bố Mỹ sẽ hợp tác với Việt Nam nhiều hơn trong việc nghiên cứu về ảnh hưởng của chất da cam.
Tháng 11/2000, trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Bill Clinton, hai bên đã thỏa thuận phối hợp với nhau nghiên cứu về ảnh hưởng của CĐDC ở Việt Nam.
Sau chuyến thăm này, các nhà khoa học Mỹ chính thức được phép phối hợp với các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu về tác động của CĐHH đối với con người và môi trường của Việt Nam. Từ 2001, Cơ quan Bảo vệ môi trường của Mỹ bắt đầu tiếp nhận các nhà khoa học Việt Nam sang Hawaii đào tạo về làm sạch môi trường.
Đặc biệt, chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ B. Clinton vào tháng 11/ 2000 đã dẫn đến việc thiết lập Ủy ban Tư vấn hỗn hợp (JAC) để giám sát việc phối hợp thực hiện các chương trình nghiên cứu về CĐDC ở Việt Nam. JAC có nhiệm vụ tư vấn cho chính phủ hai nước triển khai phối hợp khắc phục hậu quả CĐDC ở Việt Nam.
Các cuộc gặp cấp cao hai nước tiếp theo đó là những mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của quan hệ phối hợp giữa Mỹ và Việt Nam khắc phục hậu quả CĐHH do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam:
Tháng 11/2006, Tuyên bố chung Việt Nam - Hoa Kỳ sau chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ G.Bush, khẳng định: “Hai bên nỗ lực hơn nữa để giải quyết vấn đề nhiễm độc môi trường gần các kho chất độc chứa dioxin trước đây sẽ góp phần đáng kể vào việc tiếp tục phát triển quan hệ hai nước”.
Sau chuyến thăm của Tổng thống G. Bush, từ năm 2007 Quốc hội Mỹ bắt đầu phê duyệt ngân sách hằng năm cho Chính phủ Mỹ tham gia khắc phục hậu qủa CĐHH ở Việt Nam, trước hết là nghiên cứu tẩy độc dioxin ở 3 “điểm nóng” là các sân bay: Đà Nẵng, Biên Hòa, Phù Cát.
Ngày 9/8/2012, chính thức khởi công thực hiện Dự án "Xử lý môi trường ô nhiễm dioxin tại sân bay Đà Nẵng".
Tuyên bố chung Việt Nam-Mỹ ngày 25/7/2013 sau chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, đã nêu: “Tổng thống Obama tái khẳng định Hoa Kỳ cam kết tăng hỗ trợ về chăm sóc y tế và các hình thức chăm sóc, trợ giúp khác cho người khuyết tật vì bất cứ nguyên nhân nào ở Việt Nam”.
Tháng 7/2015, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã có “chuyến thăm lịch sử” tới Hoa Kỳ. Hai bên đã ra Tuyên bố về tầm nhìn chung Việt Nam - Hoa Kỳ trong lĩnh vực nhân đạo khắc phục hậu quả chiến tranh. Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhân chuyến thăm, nhấn mạnh: “Hợp tác nhân đạo giữa hai nước, trong đó có việc khắc phục hậu quả chiến tranh, đã và đang được triển khai ngày càng tích cực. Hợp tác trong lĩnh vực nhân đạo cần tiếp tục được đẩy mạnh để góp phần khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng lòng tin, tăng cường hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Hậu quả của cuộc chiến tranh ở Việt Nam còn hết sức nặng nề. Nhiều thế hệ người dân Việt Nam vẫn đang phải tiếp tục vật lộn với những hậu quả chiến tranh khắc nghiệt”.
Cuộc gặp cấp cao ngày 23/5/2016 giữa Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Tổng thống Mỹ Barack Obama khẳng định, sau tẩy độc ở Đà Nẵng, Mỹ sẽ tiếp tục hỗ trợ tẩy độc ở Biên Hòa (Đồng Nai). Sau cuộc gặp cấp cao ngày 23/11/2017 giữa Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Tổng thống Mỹ Donald Trump, phía Mỹ tuyên bố sẽ chi 390 triệu USD cho việc tẩy độc ở sân bay Biên Hòa.
Về kết quả thực hiện phối hợp giữa Mỹ và Việt Nam khắc phục hậu quả CĐHH: Tính đến tháng 5/2020, tổng kinh phí đã được Quốc hội Mỹ phê duyệt để Chính phủ Mỹ (cụ thể là Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ - USAID) phối hợp với phía Việt Nam khắc phục hậu quả CĐHH do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam là 328 triệu USD.
Đã hoàn thành chương trình tẩy độc ở Sân bay Đà Nẵng ( xử lý 90.000 m³ đất nhiễm độc, chi phí 104 triệu USD); bắt đầu triển khai tẩy độc ở sân bay Biên Hòa (dự kiến xử lý 500.000 m³ đất nhiễm độc, chi phí 390 triệu USD, trong 10 năm).
Về hỗ trợ dịch vụ y tế cho người bị nhiễm CĐHH: Tính đến tháng 4/2020, Quốc hội Mỹ đã phê duyệt hơn 80 triệu USD để Chính phủ Mỹ thực hiện các dự án hỗ trợ người khuyết tật, trong đó có nạn nhân CĐDC. Chính phủ Mỹ đang thực hiện chương trình 2016-2020 với kinh phí 21 triệu USD và đã thỏa thuận thực hiện Chương trình 2021-2025 với kinh phí 65 triệu USD cho các hoạt động trên ở 8 tỉnh bị phun rải nặng CĐHH (Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Bình Định, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Phước, Kon Tum).
Phía Hoa Kỳ cũng đã chấp nhận phối hợp với Hội Nạn nhân CĐDC/dioxin Việt Nam để thực hiện các chương trình hỗ trợ người khuyết tật.
Khi chiến tranh còn đang diễn ra và ngay sau khi kết thúc, Đảng, Nhà nước, Quân đội, các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương đã dự báo được nguy cơ, hậu quả của chất độc hóa học do quân đội Mỹ và đồng minh gây ra đối với môi trường, con người, phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.
Cuộc kháng chiến đã qua từ rất lâu nhưng trong thân thể, da thịt các nạn nhân chất độc da cam, “lửa chiến tranh” vẫn ngày đêm âm ỉ. Việc xoa dịu nỗi đau da cam không chỉ là vấn đề từ thiện nhân đạo mà chính là hoạt động thiết thực để đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công với nước; thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Đó cũng chính là lương tâm và trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam và cả xã hội chung tay, sẻ chia, giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam; phản đổi chiến tranh dùng chất độc hóa học.
Yến Như
Các tin khác
Yên Mô – Ninh Bình: Nâng cao chất lượng cuộc sống từ xây dựng nông thôn mới tại xã Yên Lâm
MTXD - Sau khi đạt chuẩn NTM nâng cao vào năm 2021, cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị từ xã đến các thôn, xóm đã tập trung mọi nguồn lực, huy động sự vào cuộc của nhân dân đến năm 2024 xã Yên Lâm, huyện Yên Mô đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu.
Hiện thực hóa quy hoạch đô thị sông Hồng
MTXD - Có thể nói Hà Nội ngày nay đang hội tụ đầy đủ trong mình nhiều yếu tố gồm cả thế và lực để hiện thực hóa khát vọng, hiện thực hóa mục tiêu xây dựng không gian hai bên sông Hồng trở thành “Biểu tượng phát triển mới của Thủ đô”.
Đô thị nén sự lựa chọn hình thái của các đô thị phát triển theo hướng sinh thái ở Việt Nam
MTXD - QCVN 01:2019 đã làm rõ nội dung về kiểm soát mật độ dân số trong các đồ án quy...
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khẩn trương ứng phó bão số 3
MTXD - Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Công điện số 86/CĐ-TTg ngày 3-9-2024 chỉ đạo các bộ ngành, địa phương khẩn trương triển khai ứng phó bão số 3 năm 2024.