Quy hoạch không gian: Công cụ hỗ trợ hiệu quả trong quản lý lãnh thổ đô thị
MTXD - Tóm tắt: Quy hoạch không gian (QHKG) được xem là một trong những công cụ hỗ trợ quản lý lãnh thổ hiệu quả, đảm bảo tính hài hòa, tính cạnh tranh, nhất là giảm xung đột trong sử dụng tài nguyên theo các không gian phát triển hướng đến mục tiêu PTBV. Bài viết phân tích cơ sở lý luận về QHKG theo tiếp cận khoa học địa lý; vận dụng lý thuyết tiến hành hoạch định các không gian phát triển cho đô thị cửa khẩu Móng Cái. Kết quả phân tích chỉ ra rằng: tùy thuộc vào bối cảnh của từng lãnh thổ; kết hợp với chiến lược phát triển lãnh thổ, định hướng ưu tiên sẽ có mức độ lồng ghép, tích hợp khác nhau trong hoạch định các không gian ưu tiên phát triển phù hợp.
Từ khóa: Đô thị; Móng Cái; Quy hoạch không gian.
1. Đặt vấn đề
Tiếp cận không gian trong quản lý lãnh thổ đã có từ thời La Mã với mong muốn mở rộng quyền lực, vẽ lại bản đồ châu lục của các triều đại phong kiến. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, tiếp cận không gian trong quy hoạch tiếp tục được quan tâm, phát triển, đánh dấu bằng sự ra đời học thuyết: “Vị trí trung tâm” của Walter Christaller (1950), học thuyết này là cơ sở xây dựng mạng lưới các trung tâm, hệ thống phân cấp các đô thị thông qua các lực hút của lãnh thổ trung tâm (Neil Adams et al., 2006). Những năm tiếp theo, quy hoạch không gian lãnh thổ (QHKG) tiếp tục được nhấn mạnh tại các Hội nghị về quy hoạch vùng do Liên hợp quốc tổ chức năm 1958; Hội nghị các Bộ trưởng quy hoạch vùng ở Bari (1976), theo đó, QHKG là biện pháp trọng yếu giúp lãnh thổ phát triển toàn diện, là việc phân bố các nguồn dự trữ của lãnh thổ để đạt hiệu quả xã hội và kinh tế ở mức tối đa (Council of Europe, 1979). Liên minh châu Âu xem QHKG là công cụ gắn kết lãnh thổ châu Âu, cơ sở thực thi các chính sách liên kết, sử dụng phân bổ hợp lý các nguồn lực theo không gian lãnh thổ với chính sách QHKG châu Âu được Hội đồng Nghị viện châu Âu thông qua năm 1983; trở thành văn bản đầu tiên sử dụng thuật ngữ quy hoạch không gian.
Ở Việt Nam, tiếp cận không gian trong tổ chức lãnh thổ phục vụ phát triển kinh tế, phân bố lực lượng sản xuất đã được chú trọng triển khai từ sau năm 1975 nhằm đáp ứng nhu cầu tái thiết đất nước sau chiến tranh, cụ thể hóa các chiến lược phát triển ở từng thời kỳ với nhiều hướng tiếp cận nghiên cứu khác nhau; trong đó, tiếp cận khoa học địa lý trong tổ chức không gian lãnh thổ được xem là hướng tiếp cận hiệu quả với kết quả đánh giá tổng hợp các nguồn lực, hướng phát triển lãnh thổ sẽ tạo cơ sở khoa học có tính khách quan trong bố trí các không gian phát triển phù hợp với tiềm năng, thế mạnh và chiến lược phát triển.
Bài viết được hoàn thành dựa trên cơ sở phân tích tổng quan về tiếp cận khoa học địa lý trong quy hoạch lãnh thổ nói chung và lãnh thổ đô thị nói riêng nhằm làm rõ hơn cơ sở lý luận về QHKG; đồng thời, vận dụng lý thuyết QHKG thành phố Móng Cái.
2. Cơ sở tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở tài liệu: Để tiến hành phân tích các nội dung liên quan đến quy hoạch không gian, các nguồn tài liệu sau đã được sử dụng: (1) Các công trình khoa học đã được công bố; (2) Báo cáo của các tổ chức trong và ngoài nước.
Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp tổng hợp và phân tích tư liệu: trên cơ sở các tài liệu thu thập, tác giả tiến hành nghiên cứu tìm hiểu các đặc điểm có liên quan đến QHKG lãnh thổ theo tiếp cận khoa học địa lý; dữ liệu về thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, từ đó chuẩn hóa các dữ liệu nhằm xây dựng luận cứ, cách tiếp cận nghiên cứu một cách đồng bộ.
- Phương pháp so sánh: Trên cơ sở chuẩn hóa các dữ liệu, tiến hành phân tích vai trò của QHKG đối với lãnh thổ. Các kết quả phân tích, so sánh là cơ sở đề xuất một số định hướng phù hợp cho Việt Nam.
- Phương pháp bản đồ và hệ thông tin địa lý: được sử dụng trong nghiên cứu để phân tích và tích hợp các lớp thông tin, phân tích không gian; kết quả được trình bày dưới dạng các bản đồ chuyên đề và bản đồ tổng hợp phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Tiếp cận không gian trong quy hoạch lãnh thổ
Quan niệm quy hoạch không gian lãnh thổ
Các nghiên cứu về quy luật phân hóa không gian phục vụ phát triển KT-XH đã xuất hiện từ giữa thế kỷ XIX nhằm thiết kế các mạng lưới quần cư và tổ chức các hoạt động sản xuất tại các địa phương bằng phương pháp khảo sát thực địa kết hợp với các phương pháp nghiên cứu chính xác từ khoa học toán, lý, hóa, đã trở thành một công cụ có tính tổng hợp và tính biện chứng không gian, chi phối các quyết định sử dụng đất đai của con người. Tuy nhiên, những nghiên cứu trong giai đoạn này còn hạn chế về phương pháp luận, các tác giả chưa thể tổng quan thành cơ sở lý luận trong nghiên cứu quy hoạch vùng (Catalina A. et al., 2008; Ebenezer Howard, 1902).
Vào những năm 50, QHKG được phát triển về mặt lý luận và ứng dụng vào thực tiễn tại các nước châu Âu theo các hướng tiếp cận khác nhau. Ở các nước phương Tây, các nhà khoa học tiếp cận vấn đề theo hướng tổ chức không gian và được xem như là nghệ thuật sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn và có hiệu quả với nhiệm vụ chủ yếu là tìm kiếm các giải pháp bố trí không gian sử dụng lãnh thổ hợp lý nhất thông qua các mối quan hệ phát triển KT-XH và các nguồn TNTN trong lãnh thổ và giữa các lãnh thổ ở các mức độ khác nhau. Liên minh châu Âu cho rằng: QHKG là sự biểu diễn địa lý về các chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa và sinh thái. Ngoài ra, đây cũng là một ngành khoa học, một kỹ thuật hành chính và chính sách được phát triển như là một cách tiếp cận đa ngành và toàn diện hướng tới một sự phát triển vùng cân bằng và tổ chức không gian theo một chiến lược tổng thể (CEMAT, 2000).
Theo quan điểm của các nhà khoa học thuộc Liên Xô (cũ) thì tổ chức không gian lãnh thổ là sự sắp xếp, bố trí (phân bố) và phối hợp các đối tượng gây ảnh hưởng lẫn nhau, có liên hệ qua lại giữa các hệ thống sản xuất, hệ thống tự nhiên và hệ thống dân cư; nhằm sử dụng một cách hợp lý các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí kinh tế - xã hội để đạt hiệu quả kinh tế cao vào nâng cao mức sống dân cư của lãnh thổ đó (YUG. Xautskin, 1964). Năm 2009, Thủ tướng Putin đã ký ban hành văn bản: “Quan điểm tổ chức không gian lãnh thổ liên bang Nga”, văn bản này có vị trí cao nhất trong hệ thống phân loại các văn bản quy hoạch lãnh thổ. Văn bản yêu cầu cần nêu bật các vấn đề và triển vọng của việc phát triển không gian liên bang Nga theo từng giai đoạn; xác định các biện pháp giảm sự chênh lệch vùng; nêu ra cách thức hỗ trợ lẫn nhau một cách hiệu quả giữa chính quyền liên bang, của vùng và của địa phương và người dân; kiến nghị các biện pháp tích hợp không gian liên bang Nga với không gian thế giới (dẫn theo Huỳnh Phước, 2011).
Trung Quốc tập trung nghiên cứu các vấn đề phân bố sử dụng lãnh thổ xuất phát từ mối liên hệ và tác động qua lại với lãnh thổ quốc gia; kết quả là cơ sở đề xuất kế hoạch điều hòa, phối hợp lợi ích của các vùng, các địa phương khác nhau với lợi ích của toàn quốc. Nhà nước chú trọng phát triển kinh tế tổng hợp, bố trí cân bằng trong toàn quốc, kết hợp giữa trung ương và địa phương. Mỗi vùng, mỗi địa phương, ngoài việc tận dụng thế mạnh riêng của mình để phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, còn đáp ứng các yêu cầu của trung ương.
Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội của các nước Đông Nam Á được tiến hành bằng việc xây dựng khu đô thị mới và phát triển nông thôn, hình thành các khu kinh tế, khu cảng, khu công nghiệp (dẫn theo Phạm Kim Giao, 2000; Trần Thị Tuyết, 2015).
Ở Việt Nam, nghiên cứu tổ chức không gian lãnh thổ được xem như là một hành động có chủ ý, nhằm tạo cơ sở khoa học cho các chính sách phát triển KTXH dài hạn, hướng tới sự công bằng về mặt không gian giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các cực và các không gian ảnh hưởng, nhằm giải quyết ổn định công ăn việc làm, hạn chế sự phình to của các đô thị; cân đối giữa quần cư nông thôn và quần cư thành thị, bảo vệ và phát triển bền vững môi trường (Lê Bá Thảo, 1996; Trần Thị Tuyết, 2015).
Từ các nội dung đã phân tích ở trên, có thể rút ra một số luận điểm chung về QHKG, như sau: (i) Sự sắp xếp các khu chức năng của lãnh thổ phù hợp với các điều kiện và tiềm năng phát triển trong khả năng sức chứa của lãnh thổ; (ii) Đảm bảo sự gắn kết, tương tác lẫn nhau giữa phát KTXH, BVMT thông qua kết nối giữa các phân khu chức năng, cực, tuyến phát triển; (iii) Nâng cao tính cạnh tranh của lãnh thổ trên cơ sở phát huy tiềm lực lãnh thổ và tận dụng cơ hội với không gian mở kết nối.
Nguyên tắc quy hoạch không gian lãnh thổ
Để đảm bảo tính hiệu quả trong QHKG đòi hỏi phải tuân thủ các nguyên tắc phù hợp với tính đặc thù, chiến lược phát triển của từng giai đoạn. Các nguyên tắc mang tính cốt lõi cần tạo tính cân bằng trong phát triển, hạn chế các quyết định mang tính chính trị, tránh sự chồng chéo giữa các chính sách phát triển. Một số nguyên tắc mang tính chung cần cân nhắc (CEMAT, 2000; ECMT, 1994; Catalina A. et al., 2008; Darryl Low Choy, 2006; Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, 1983; Trần Thị Tuyết, 2015):
- Đáp ứng được các yêu cầu và kế hoạch phát triển của từng lãnh thổ: Bất cứ một giải pháp bao quát nào cũng phải phù hợp với những điều kiện cụ thể, phù hợp với sự phát triển lịch sử và môi trường tự nhiên.
- Đảm bảo sự gắn kết lãnh thổ và tăng cường tính cạnh tranh: Đây là nguyên tắc trung tâm để quản lý phát triển lãnh thổ trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Điều này đòi hỏi các chính sách phát triển phải đảm bảo tính cân bằng, tính hệ thống với các lãnh thổ liền kề, lãnh thổ quy mô cấp cao hơn trên cơ sở mô hình phát triển đa tầm với các hành lang, trục, cực phát triển hợp lý để tạo tính lan tỏa, tính thu hút, tính bổ trợ giữa các vùng, liên vùng trong phát triển toàn diện.
- Đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ các không gian phát triển kinh tế với sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; đảm bảo tính phù hợp với thế mạnh về vị trí địa lý, vị thế kinh tế, với điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên trong lãnh thổ; đáp ứng nhu cầu về cung cấp tài nguyên, đảm bảo lợi ích cho cộng đồng và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao; phù hợp với trình độ nguồn nhân lực và trình độ phát triển.
- Đảm bảo sự phát triển hài hòa, tương tác, hỗ trợ giữa khai thác, sử dụng và bảo tồn hướng tới sự phát triển ổn định, lâu dài. Hài hòa là phải tính đến tổng thể phát triển các loại hình, sao cho mỗi loại hình đều có điều kiện tồn tại và phát triển. Tương tác là sự kết hợp, quan hệ và trao đổi lẫn nhau giữa các ngành và lĩnh vực trong một tổng thể. Hỗ trợ là sự bổ sung và điều tiết giữa các ngành và lĩnh vực trong một tổng thể. Khi QHKG, 3 yếu tố trên được coi là nguyên tắc quan trọng cần thấm nhuần và sử dụng linh hoạt để đạt được mục tiêu PTBV.
Các nguyên tắc trên mang tính định hướng cho QHKG ở các cấp khác nhau; phản ánh chiến lược mang tính chặt chẽ, cạnh tranh, hợp tác cùng phát triển nhằm phát huy hiệu quả tiềm năng, lợi thế lãnh thổ; đồng thời, tận dụng được các cơ hội từ bên ngoài hướng tới phát triển lãnh thổ cân bằng, bền vững. Hay nói cách khác, QHKG cần đề xuất được kế hoạch quản lý lãnh thổ sao cho vừa mang tính đặc thù, vừa đảm bảo tính tích hợp các kế hoạch quốc gia và gắn kết với các kế hoạch phát triển lãnh thổ của các khu vực khác.
Vai trò của tiếp cận không gian trong hoạch định phát triển lãnh thổ
Trên con đường phát triển, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều sức ép cả về kinh tế, xã hội và môi trường, song, trung thành với tiến trình PTBV toàn cầu, mục tiêu được đặt ra là: Đảm bảo phát triển từng bước vững chắc việc lập kế hoạch và quản lý môi trường ở các cấp quy mô khác nhau. Tạo điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế nhanh và bền vững. PTBV đòi hỏi phải có chiến lược sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hợp lý và tổng hợp, tránh tình trạng chồng chéo trong quản lý và phát triển; phát huy tối đa lợi thế của các lãnh thổ, phát triển hài hòa giữa kinh tế, xã hội, BVMT và thích ứng với BĐKH (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021).
Tuy nhiên, để PTBV lãnh thổ, cần thiết phải dựa trên các kết quả nghiên cứu mang tính tổng hợp, hệ thống bởi vì hoạt động kinh tế của con người không dàn đều trên toàn bộ bề mặt trái đất mà ở các đơn vị lãnh thổ cụ thể (cảnh quan địa lý) theo các quy luật địa lý chung toàn cầu. Điều này có nghĩa, đối với mỗi lãnh thổ, để thực hiện được mục tiêu PTBV, trước hết, cần tiến hành nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn các nguồn lực phát triển của lãnh thổ một cách cụ thể vàm chi tiết, từ đó xây dựng cơ cấu vốn hợp lý cho phát triển, một trong những phương pháp tiếp cận có hiệu quả cao đã được chứng minh trên thực tiễn hoạch định phát triển không gian dựa trên kết quả nghiên cứu các tổng hợp thể lãnh thổ
- các cảnh quan.
Cảnh quan là địa hệ thống biểu thị mối quan hệ tổng hòa các điều kiện sinh thái góp phần tạo nên các tiềm năng tự nhiên cho phát triển của lãnh thổ và được coi là đối tượng sử dụng tài nguyên theo không gian. Do đó, mỗi cảnh quan đều sở hữu riêng chức năng tự nhiên và chức năng kinh tế xã hội và nó phụ thuộc vào cấu trúc của bản thân nó. Nghiên cứu cấu trúc cảnh quan có thể phát hiện các chức năng và quan hệ tác động của các hợp phần cấu thành và mối quan hệ giữa chúng.
Trong đó, chức năng tự nhiên đảm nhiệm vai trò điều khiển cấu trúc cảnh quan, tự điều chỉnh các hợp phần tự nhiên tạo ra các chu trình chuyển hóa vật chất và năng lượng trong hệ thống cảnh quan, nếu ta chọn đúng khâu và đúng thời điểm để tác động thích hợp thì tất cả hệ thống có thể tự điều chỉnh theo hướng có lợi và ngược lại sẽ dẫn đến các hệ quả không mong đợi xảy ra từ những phản ứng dây chuyền trong hệ thống. Chức năng kinh tế xã hội của cảnh quan được vận hành theo quy luật xã hội - nhân văn, qua đó có thể định hướng cho hệ thống tự điều chỉnh về mặt xã hội (văn hóa - nhân văn tộc người, cộng đồng người,…). Có thể thấy, mỗi một hệ thống như vậy là một hệ cân bằng động, các yếu tố thành phần luôn luôn biến đổi trong không gian và theo thời gian, trong đó con người là chủ thể và tác động của con người là yếu tố quyết định đối với sự cân bằng của toàn hệ thống. Nếu con người sử dụng tự nhiên tuân theo quy luật của tự nhiên thì sẽ tiết kiệm công sức và tiền của, vì được tự nhiên trợ giúp năng lượng và vật chất, còn ngược lại thì nguồn năng lượng và vật chất kia lại được dùng để phá hoại công trình nhân sinh hay nhân tác và gây tai họa khôn lường (Vũ Tự Lập, 2004).
Vùng đô thị được xem là hệ thống sinh thái nhân văn mở - cấu trúc không gian lãnh thổ đô thị do con người lựa chọn, xây dựng nên không gian - môi trường nhân tạo là một thực thể chịu sự tác động của môi trường xung quanh, như: đô thị liên kết lãnh thổ mà đô thị chịu ảnh hưởng bởi sức lan tỏa, sức hút giữa các đô thị trong hệ thống đô thị, các vùng phát triển có chức năng hỗ trợ và cung cấp nguyên liệu, hàng hóa, như vùng phát triển nông, lâm, ngư nghiệp. Mặt khác, sự PTBV của lãnh thổ còn bị sự ràng buộc phần lớn vào "sức chứa" trên các mặt dân số, kinh tế, xã hội, môi trường... thông qua các hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn riêng cho từng loại lãnh thổ (Đào Hoàng Tuấn, 2008).
Như vậy, định hướng không gian phát lãnh thổ chính là nghiên cứu và tổ chức các cảnh quan cho các mục đích phát triển khác nhau một cách bền vững; đảm bảo mối quan hệ bền vững của các cặp: (i) Kinh tế và tài nguyên thiên nhiên; (ii) Kinh tế và dân số, lao động; (iii) Môi trường và điều kiện sinh sống của dân cư. Trong đó, tài nguyên thiên nhiên là tiền đề khách quan cho sự phát triển của kinh tế và từ kinh tế mang lại nguồn thu nhập của dân cư (yếu tố cơ bản làm nâng cao chất lượng sống của dân cư), chất lượng sống của dân cư lại là tiền đề khách quan của sự điều chỉnh các chính sách, thể chế, quản lý lãnh thổ nhằm phát triển lãnh thổ theo hướng bền vững và hiện đại.
Dựa trên các kết quả nghiên cứu hệ thống, tổng hợp các điều kiện hình thành, phát triển lãnh thổ (cảnh quan) sẽ góp phần làm sáng tỏ bản chất của tự nhiên, làm rõ các quy luật phát triển, các đặc trưng phân hóa lãnh thổ, cũng như những tác động nhân tác, mối quan hệ giữa các hợp phần trong tổ chức không gian nhằm giảm thiểu các hoạt động làm suy giảm số lượng và chất lượng tự nhiên; qua đó, là căn cứ mang tính khoa học và trên cơ sở đó các không gian ưu tiên, các cực và các tuyến động lực được hoạch định đảm bảo độ tin cậy và tính khách quan.
3.2. Vận dụng lý thuyết quy hoạch không gian lãnh thổ vào hoạch định phát triển thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh
Nhằm làm sáng tỏ khả năng ứng dụng kết quả nghiên cứu cảnh quan như một trong các cơ sở địa lý quan trọng và cần thiết cho hoạch định không gian phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường cấp địa phương, các nội dung nghiên cứu cảnh quan phải bao gồm: nghiên cứu cấu trúc đứng (các hợp phần địa lý và mối quan hệ, tương tác giữa chúng), cấu trúc ngang (các đơn vị cảnh quan và mối liên hệ giữa chúng) và cấu trúc thời gian (nghiên cứu động lực mùa và sự biến đổi cảnh quan theo thời gian) có thể lựa chọn cho ưu tiên phát triển loại hình sản xuất nào đó. Trong phạm vi nghiên cứu thành phố Móng Cái, loại cảnh quan và tiểu vùng cảnh quan là đối tượng chính cho tổ chức không gian phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Thành phố Móng Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh, có đường biên giới cả trên bộ và trên biển với Trung Quốc thông qua vịnh Bắc Bộ, có vị trí chiến lược quan trọng trong trục kinh tế trọng điểm phía bắc, cửa ngõ tiếp giáp với cửa khẩu Đông Hưng, cửa khẩu cấp quốc gia, được Trung Quốc xác định là cửa ngõ tiến vào ASEAN. Hơn nữa, Móng Cái được hưởng nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi của nhà nước về đầu tư phát triển kinh tế cửa khẩu; được xem là khâu đột phá để phát triển kinh tế thương mại, dịch vụ, du lịch của tỉnh Quảng Ninh. Móng Cái có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên với sự phân hóa cảnh quan từ lục địa - phía tây bắc xuống biển - phía đông nam, được khái quát theo mặt cắt thể hiện trong Hình 1, phản ánh sự phân hóa thấp dần theo độ cao của địa hình, tạo thành các không gian đủ lớn để tổ chức các không gian phát triển; tạo tính đặc thù, tính liên kết và bổ trợ trong khai thác, sử dụng phục vụ phát triển một nền kinh tế tổng hợp; đó là sự kết hợp giữa phát triển các ngành kinh tế trên cơ sở khai thác tài nguyên trên lục địa, chú trọng phát triển kinh tế rừng và kinh tế cửa khẩu với phát triển các ngành kinh tế biển.
Hình 1. Mặt cắt hướng Tây Bắc - Đông Nam thành phố Móng Cái
Tuy nhiên, Móng Cái cũng đang đứng trước nhiều thách thức trong tiến trình phát triển, như: phụ thuộc vào cơ chế, chính sách của cả Việt Nam và Trung Quốc; điều kiện tự nhiên phức tạp, luôn tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường xuyên biên giới,… Ngoài ra, trên cơ sở phân tích các quy hoạch phát triển có liên quan đến thành phố Móng Cái, cho thấy: Kinh tế cửa khẩu được xác định là nhân tố đặc thù - lợi thế của lãnh thổ, nhân tố thúc đẩy và tác động tới sự mở rộng cấu trúc không gian, nhưng chưa phân định rõ ranh giới các khu vực ưu tiên phát triển từng loại hình sản xuất; do đó, để phát huy được lợi thế đòi hỏi phải có giải pháp phù hợp để trở thành đô thị động lực phát triển của vùng Đông Bắc và góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác và bảo đảm vùng biên giới hoà bình, hữu nghị cùng phát triển. Các giải pháp cần đảm bảo định hướng không gian phát triển hợp lý, gắn liền với PTBV đô thị cửa khẩu trên cơ sở một số yêu cầu:
(i) Về kinh tế: Các không gian phát triển phải phù hợp với vị thế và tiềm năng phát triển của thành phố, hạt nhân là khu kinh tế cửa khẩu, trở thành một trong những trung tâm kinh tế của vành đai kinh tế ven biển vịnh Bắc Bộ và vùng Đông Bắc; (ii) Về xã hội: Tạo sinh kế bền vững, đảm bảo an ninh xã hội và quốc phòng; (iii) Về môi trường: Bảo vệ và phát triển rừng, đặc biệt là hệ thống rừng phòng hộ đầu nguồn; bảo vệ môi trường nước là nhân tố quyết định đến môi trường sinh thái đô thị của Móng Cái trong quá trình PTBV và hiện đại; giảm thiểu sự ô nhiễm môi trường, tiến tới xây dựng môi trường sống trong lành nhằm nâng cao chất lượng sống dân cư.
Căn cứ vào kết quả phân tích, đánh giá tiềm năng cảnh quan cho các ngành sản xuất kinh tế chính: sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản nước lợ - mặn, du lịch tắm biển, phát triển đô thị và đô thị cửa khẩu; kết hợp với điều kiện lãnh thổ có thể đưa ra khung hoạch định không gian phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường TP Móng Cái, gồm các thành phần chính (Hình 2, 3) với 4 tiểu vùng chức năng (TV1, TV2, TV3, TV4), 1 cực phát triển đô thị cửa khẩu, 04 tuyến liên kết ngoại vùng và các tuyến nội vùng, 13 không gian ưu tiên phát triển.
Hình 2. Sơ đồ khung định hướng không gian phát triển kinh tế và BVMT
Đặc biệt, liên kết các vùng nguyên liệu, vùng du lịch với các khu vực trong vùng, đảm bảo vận chuyển linh hoạt, dễ dàng tiếp cận giữa nhà cung cấp, nhà sản xuất và khách du lịch. Liên kết các tiểu vùng đồi núi phía bắc với tiểu vùng trung tâm nhằm phát huy các tiềm năng cho phát triển, hạn chế chênh lệch giữa các tiểu vùng, đồng thời nâng cao sinh kế của người dân địa phương, gópphần ổn định tình hình chính trị, an ninh quốc phòng thông qua xóa đói giảm nghèo. Đồng thời, đảm bảo tính bình đẳng, mối liên kết nội vùng giữa các không gian và ngoại vùng với các vùng lân cận trong nước và ngoài nước (Trung Quốc) (Hình 3).
Hình 3. Bản đồ định hướng không gian PTKT &BVMT thành phố Móng Cái
4. Kết luận
QHKG được xem như là công cụ hỗ trợ hiệu quả trong quản lý lãnh thổ hướng đến mục tiêuPTBV trên cơ sở sử dụng hợp lý tiềm năng lãnh thổ ở các chiều cạnh không gian khác nhau. Công cụ gắn kết các lãnh thổ ở quy mô khác nhau, đảm bảo tính đặc thù trong thực thi các chính sách phát triển; đồng thời, giải quyết hiệu quả những mâu thuẫn trong sử dụng tài nguyên.
Cơ sở khoa học của QHKG là sự tích hợp các kết quả nghiên cứu theo tiếp cận địa lý tự nhiên với cảnh quan là trọng tâm; tiếp cận địa lý nhân văn với các nhân tố kinh tế, xã hội, môi trường, tính đặc trưng văn hóa trên một không gian lãnh thổ xác định; các kết quả đánh giá tổng hợp lãnh thổ là căn cứ mang tính khoa học, khách quan giúp các nhà quản lý trong hoạch định các không gian sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường mang tính hệ thống và tổng hợp, tránh tính cục bộ và thiếu quy luật khách quan trong hoạch định chiến lược phát triển.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện thực hiện cơ bản khác nhau giữa các quốc gia nên mục đích sử dụng công cụ và hiệu quả của công cụ này khác nhau. Đối với đô thị cửa khẩu Móng Cái, kết quả nghiên cứu với các ranh giới phát triển được vạch rõ trên thực địa là cơ sở hướng đến sự
phát triển bền vững với 1 cực phát triển đô thị cửa khẩu và các tuyến trục liên kết, không gian ưu tiên phát triển theo các tiểu vùng. Các kết quả trong công trình này có thể là tài liệu tham khảo bổ ích cho việc xem xét và điều chỉnh các hoạt động PTKT gắn với khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên và BVMT cho một thành phố cửa khẩu có biển ở cực đông bắc của Tổ quốc.
TRẦN THỊ TUYẾT*
Tài liệu tham khảo:
1. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1983), Lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất của Việt Nam thời kỳ 1986-2000, Chỉ thị số 212-CT, ngày 04/8/1983.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, tr.214.
3. Phạm Kim Giao (2000), Quy hoạch vùng, Nxb. Xây dựng, Hà Nội.
4. Vũ Tự Lập (2004), Sự phát triển của khoa học địa lí trong thế kỷ XX, Nxb. Giáo dục, H.
5. Huỳnh Phước (biên dịch) (2011), “Đổi mới công tác qui hoạch ở liên bang Nga”, Tạp chí Quy hoạch xây dựng, (53), tr. 63-65.
6. Lê Bá Thảo (1996), Cơ sở khoa học của tổ chức lãnh thổ Việt Nam. Đề tài độc lập và trọng điểm cấp Nhà nước, Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường.
7. Nguyễn Xuân Thu, Nguyễn Văn Phú (2006), Phát triển kinh tế vùng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
8. Đào Hoàng Tuấn (2008), Phát triển bền vững đô thị: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm của thế giới, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội
9. Trần Thị Tuyết (2015), Cơ sở địa lý phục vụ tổ chức không gian phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường thành phố cửa khẩu Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, Luận án Tiến sĩ ngành Địa lý.
10. Yu. G. Xautskin (1964), Địa lý kinh tế và nền kinh tế quốc dân (Biên dịch Văn Thái - Phan Xuân Tâm - Phạm Văn Trung), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
11. Catalina Anaita, Lucian B. Bnujan (2008), “Cohesion and disparities: Regional and local development in central and South-Eastern Europe between potential policies and practices”, Geographica Timisiensis, (17), pp.7-16.
12. Council of Europe (1979), European Conference of Ministers responsible for regional planning (CEMAT), Strasbourg, German.
13. Darryl Low Choy (2006), Towards a Regional Landscape Framework: Is Practice Ahead of Theory?, Griffith University, England.
14. Ebenezer H. (1902), Garden cities of tomorrow, S. Sonnenschein & Co., Ltd, England
15. ECMT (European Conference of Ministers of Transport) Proceedings of the II PanEuropean Conference of Ministers of Transport. Crete in March 1994, Paris, 1994.
16. European Conference of Ministers responsible for Regional Planning (CEMAT) (2000), Guiding principles for Sustainable Spatial Development of the Eeurropean Continent.
17. Neil Adams, Jeremy Alden and Neil Harris (2006), Regional Development and Spatial Planning in an Enlarged European Union, Antony Rowe Ltd, Chippenham, Wiltshire, Great Britain
* Tiến sĩ, Nghiên cứu viên chính, Viện Địa lí nhân văn, email: trantuyet.iesd@gmail.com.
Các tin khác
Yên Mô – Ninh Bình: Nâng cao chất lượng cuộc sống từ xây dựng nông thôn mới tại xã Yên Lâm
MTXD - Sau khi đạt chuẩn NTM nâng cao vào năm 2021, cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị từ xã đến các thôn, xóm đã tập trung mọi nguồn lực, huy động sự vào cuộc của nhân dân đến năm 2024 xã Yên Lâm, huyện Yên Mô đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu.
Hiện thực hóa quy hoạch đô thị sông Hồng
MTXD - Có thể nói Hà Nội ngày nay đang hội tụ đầy đủ trong mình nhiều yếu tố gồm cả thế và lực để hiện thực hóa khát vọng, hiện thực hóa mục tiêu xây dựng không gian hai bên sông Hồng trở thành “Biểu tượng phát triển mới của Thủ đô”.
Đô thị nén sự lựa chọn hình thái của các đô thị phát triển theo hướng sinh thái ở Việt Nam
MTXD - QCVN 01:2019 đã làm rõ nội dung về kiểm soát mật độ dân số trong các đồ án quy...
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khẩn trương ứng phó bão số 3
MTXD - Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Công điện số 86/CĐ-TTg ngày 3-9-2024 chỉ đạo các bộ ngành, địa phương khẩn trương triển khai ứng phó bão số 3 năm 2024.