So sánh và phân tích mức độ hài lòng về cuộc sống, sức khỏe và hạnh phúc của cư dân khu nhà ở công cộng

​MTXD - Trong các khu nhà ở công cộng cho thuê quy mô lớn được xây dựng từ những năm 1950 đến 1970 ở ngoại ô các khu đô thị như Tokyo và Osaka, các vấn đề như tòa nhà và cư dân cũ kỹ, số lượng nhà trống gia tăng và tỷ lệ người ở một mình khi chết đã trở nên rõ ràng.

MTXD - Trong các khu nhà ở công cộng cho thuê quy mô lớn được xây dựng từ những năm 1950 đến 1970 ở ngoại ô các khu đô thị như Tokyo và Osaka, các vấn đề như tòa nhà và cư dân cũ kỹ, số lượng nhà trống gia tăng và tỷ lệ người ở một mình khi chết đã trở nên rõ ràng. Để xem xét các biện pháp giải quyết những vấn đề này, nghiên cứu phát triển một phương pháp sử dụng Mô hình cấu trúc tuyến tính SEM (Structural Equation Modeling) để phân tích các yếu tố về sự hài lòng một cách chủ quan trong cuộc sống, sức khỏe và hạnh phúc của cư dân tại các khu nhà ở công cộng cho thuê, có xem xét đến mối quan hệ giữa các yếu tố này.

Chúng tôi cũng tiến hành phân tích so sánh tình hình thực tế và phân tích hệ số sử dụng đối với cư dân của bốn khu nhà ở ở tỉnh Chiba, nơi có đặc điểm vị trí và cơ cấu độ tuổi của cư dân khác nhau (được xác định thông qua khảo sát bảng câu hỏi). Các phân tích chỉ ra rằng các chỉ số hạnh phúc trong cùng nhóm tuổi và giữa các nhóm rất khác nhau.

Các điều kiện để xem xét cho các kế hoạch trong tương lai vẫn chưa được thiết lập. Để làm được như vậy, cần phải hiểu “Hệ thống các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sức khỏe” và thiết lập tầm quan trọng của nghiên cứu, từ đó lập kế hoạch và phát triển một cuộc khảo sát giả định mối quan hệ nhân quả cho các phiên bản.

1-Giới thiệu

1.1 Bối cảnh nghiên cứu

Tại Nhật Bản, giữa những năm 1950 và 1970, Tổng công ty Nhà ở Nhật Bản (hiện nay là UR: Cơ quan Phục hưng Đô thị JAPAN) đã xây dựng nhiều thành phố lớn ở ba khu vực đô thị lớn để giải quyết các vấn đề do tập trung dân số và thiếu nhà ở đi kèm với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, phát triển các khu nhà ở tập thể cho thuê quy mô lớn.

Nghiên cứu được thực hiện tại một tòa nhà dân cư điển hình trong một khu nhà ở cao năm tầng và không có thang máy. Tại khu nhà ở phức hợp, các gia đình có xu hướng chuyển đến ở cùng một thời điểm, với thành phần hộ gia đình tương đối giống nhau và ở trong một thời gian dài. Trong những năm gần đây, sự già hóa của cư dân và số lượng hộ gia đình người già độc thân đã tăng lên nhanh chóng. So với các khu nhà ở tư nhân (chung cư, v.v.) được xây dựng làm nơi ở mới dành cho thế hệ trẻ thì các khu nhà ở cũ không gian sống chật hẹp và trang thiết bị trong phòng lạc hậu. Các vấn đề hiện nay là sự gia tăng số phòng trống ở các tầng trên (tầng 4 và 5), sự suy giảm các hoạt động cộng đồng địa phương và những cái chết đơn độc đã trở nên rõ ràng. Để thực hiện các biện pháp cải thiện môi trường xung quanh trong phạm vi ngân sách quốc gia hạn chế cho những lĩnh vực có vấn đề này, chúng tôi tính toán định lượng tác động của các biện pháp khác nhau và kiểm tra các biện pháp tối ưu bằng cách so sánh chúng với chi phí liên quan. Do vậy, tiến hành các cuộc khảo sát về sự hài lòng về cuộc sống và sức khỏe/hạnh phúc của người dân như những chỉ số thể hiện một cách định lượng những tác động đối với người dân.

1.2. Đánh giá các nghiên cứu trước đây

Trong một nghiên cứu về lĩnh vực quy hoạch đô thị, đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng chủ quan của người dân đối với cuộc sống, Yoshida và các đồng nghiệp nhận thấy rằng các đặc điểm môi trường địa phương và thuộc tính cá nhân ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống (Quality of Life - QOL) đã được đề cập trong cuốn Myers (1998). QOL được coi là một trong những yếu tố quan trọng của sự hài lòng trong cuộc sống. Trong cuốn sách Ando (2014) tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa hạnh phúc và sự hài lòng với cuộc sống bằng nhiều chỉ số liên quan đến cuộc sống khác nhau; phân tích nhắm vào cư dân đô thị và xem xét khả năng tăng cường hạnh phúc như một chỉ số đánh giá cho các chính sách quản lý đất đai và đô thị quốc gia. Trong cuốn Zhang và cộng sự (2012), các tác giả cũng chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa sức khỏe và QOL, đồng thời trình bày phương pháp phân tích mối quan hệgiữa sức khỏe thể chất, sức khoẻ tinh thần và xã hội, khả năng tiếp cận từng khu nhà ở và hiện trạng phát triển cơ sở hạ tầng đô thị.

Những nghiên cứu này chủ yếu phân tích tác động của các chỉ số môi trường sống khác nhau đến mức độ hài lòng về cuộc sống, hạnh phúc và sức khỏe một cách chủ quan của cư dân thành thị. Chưa có nghiên cứu nào xem xét sự phụ thuộc lẫn nhau hoặc phân tích các yếu tố riêng lẻ. Ngoài ra, chưa có nghiên cứu nào trước đây phân tích định lượng các yếu tố này đối với cư dân của các khu nhà ở cho thuê phức hợp vốn đang gặp nhiều vấn đề trong những năm gần đây. Đến nay, tác giả đã công bố hai báo cáo nghiên cứu về việc thực hiện bảng câu hỏi hướng tới người dân (Katayama, 2017 và 2023). Nghiên cứu này là sự tiếp nối của những báo cáo đó.

1.3. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu này nhắm vào các khu nhà ở phức hợp công cộng cho thuê quy mô lớn ở ngoại ô các khu vực đô thị và so sánh mức độ hài lòng chủ quan về cuộc sống, sức khỏe và hạnh phúc của cư dân sống trong nhiều khu phức hợp. Nghiên cứu này nhằm mục đích phát triển một phương pháp phân tích xem xét các yếu tố và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa sự hài lòng trong cuộc sống, sức khỏe và hạnh phúc dựa trên sự khác biệt về đặc điểm dân cư và môi trường sống.

2.Khung phân tích

2.1. Các yếu tố của sự hài lòng trong cuộc sống, sức khỏe và hạnh phúc
Khi tham khảo các nghiên cứu trước đây, sự thuận tiện, an toàn và thoải mái được cho là sẽ ảnh hưởng đến sự hài lòng trong cuộc sống, các mối quan hệ xã hội (quan hệ con người), hiệu quả kinh tế và sức khỏe thể chất và tinh thần (giả sử rằng chúng ảnh hưởng đến hạnh phúc) và thiết lập các chỉ số chủ quan và khách quan liên quan.

Các chỉ số chủ quan liên quan đến sự thuận tiện bao gồm khả năng tiếp cận các điểm đến và đi thường xuyên đến văn phòng, trường học và các phương tiện khác khi cần. Chỉ số chủ quan liên quan đến an toàn là mức độ hài lòng đối với rủi ro lien quan đến tội phạm, tai nạn giao thông, thiên tai mức độ thấp. Các chỉ số chủ quan liên quan đến sự thoải mái bao gồm sự thoải mái trong nhà, môi trường lành mạnh, sự dễ dàng đi lại trong khu và xung quanh khu nhà ở và mức độ hài lòng với thiên nhiên, công viên, hồ nước và cảnh quan.

Chỉ số chủ quan của các mối quan hệ xã hội bao gồm mối quan hệ với gia đình, bạn bè, người quen trong khu nhà ở và sự hài lòng với bạn bè, người quen bên ngoài khu nhà ở (liên quan đến công việc, ngoài công việc). Chỉ số chủ quan về hiệu quả kinh tế có thể được coi là thu nhập, sự hài lòng vớiviệc tiêu dùng nhu yếu phẩm, hàng hóa xa xỉ, du lịch, dịch vụ, v.v. Thời gian dành cho gia đình, thời gian dành cho bạn bè và người quen (trong và ngoài khu nhà ở), thời gian ngủ, thời gian dành cho sở thích cá nhân, v.v., là những yếu tố quyết định sự thuận tiện, an toàn, thoải mái, kinh tế xã hội và hiệu quả kinh tế.

Liên quan đến sức khỏe, thời gian ngủ cần thiết, thời gian đi lại, thời gian làm việc, thời gian làm việc nhà, thời gian dành cho sở thích, thời gian tập thể dục, thời gian đi bộ, thời gian mua sắm, các chỉ số tần suất tiêu thụ rượu, thuốc lá liên quan.Tần suất tham gia các sự kiện cộng đồng như lễ hội, trong và ngoài khu nhà ở có thể ảnh hưởng đến sức khỏe.
Hình 1 cho thấy mối quan hệ lẫn nhau giữa sự hài lòng trong cuộc sống, sức khỏe, hạnh phúc, các yếu tố giả định và mối quan hệ nhân quả giữa các chỉ số chủ quan và khách quan liên quan.

A: Sự hài lòng về cuộc sống B: Hạnh phúc C: Sức khỏe’
Hình-1 Giả thuyết về mối quan hệ nhân quả

2.2. Phương pháp phân tích

Phân tích các nhân tố được thực hiện thông qua SEM (mô hình cấu trúc tuyến tính), có thể phân tích toàn diện mối quan hệ giữa chỉ số chủ quan, chỉ số khách quan và bất kỳ yếu tố tiềm ẩn nào. Phân tích được thực hiện theo nhóm tuổi bằng cách sử dụng dữ liệu cá nhân từ một cuộc khảo sát bằng bảng câu hỏi đối với cư dân của nhiều khu nhà ở với các đặc điểm khác nhau.


3. Sơ lược về khu nhà ở mục tiêu và khảo sát câu hỏi của người dân
3.1. Tổng quan về khu nhà ở phức hợp

Các khu nhà ở phức hợp là những khu có tổng cộng 1.000 căn hộ riêng lẻ trở lên, nằm ở tỉnh Chiba, cách trung tâm Tokyo 20-40 km. Sự kết hợp của các đặc điểm vị trí - chẳng hạn như khoảng cách tính từ trung tâm thành phố và khoảng cách đến các ga xe lửa - thành phần độ tuổi của cư dân và các đặc điểm của cư dân là khác nhau. Khu phức hợp nhà ở Sodegaura, khu nhà ở Shibayama, khu nhà ở Yonemoto và khu nhà ở Kohokudai vẫn chưa được xây dựng lại. Sơ đồ của từng tổ hợp nhà ở phức hợp được thể hiện trong Bảng-1, vị trí của tổ hợp nhà ở được thể hiện trong Hình 2 và cơ cấu độ tuổi của cư dân được thể hiện trong Hình 3.


4. So sánh thực tế về sự hài lòng trong cuộc sống, sức khỏe và hạnh phúc
Các chỉ số chủ quan liên quan đến sự thuận tiện, an toàn, thoải mái của người dân bên trong khu nhà ở và bên ngoài khu nhà ở được lấy từ kết quả khảo sát bảng câu hỏi. Hình 4 đến Hình 8 so sánh điều kiện thực tế của bốn khu nhà ở phức hợp về sự hài lòng trong cuộc sống, sức khỏe và hạnh phúc. Về mức độ hài lòng với sự tiện lợi thì Sodegaura có tỷ lệ hài lòng cao với tất cả các tiêu chí và tỷ lệ không hài lòng rất thấp. Ở Shibayama, tỷ lệ hài lòng cao thấp tuỳ vào từng hạng mục. Tỷ lệ không hài lòng cao hơn so với khu nhà ở phức hợp Hồ Bắc. Ở Yonamoto, người dân không hài lòng với việc khó tiếp cận các cơ sở vật chất hàng ngày và không hàng ngày, tỷ lệ người dân hài lòng thấp. Điều này là do Yonamoto nằm xa trung tâm thành phố và xa nhà ga gần nhất (Hình 4).

Về mức độ hài lòng về mức độ an toàn, Sodegaura không hài lòng với các mối hiểm họa hơn ba khu nhà ở còn lại song lại hài lòng về giảm tai nạn giao thông và phòng chống tội phạm cao.

Một tỷ lệ cao người dân Yonamoto hài lòng với công tác phòng chống tội phạm. Shibayama có tỷ lệ không hài lòng trước nguy cơ thảm họa thấp, đặc biệt thấp so với các khu nhà ở khác, một phần là do công tác gia cố địa chấn đã được thực hiện (Hình 5).


Về mức độ hài lòng về tiện nghi bên trong khu phức hợp nhà ở, Shibayama có tỷ lệ hài lòng cao hơn ba khu phức hợp còn lại. Sodegaura có tỷ lệ không hài lòng cao với cảnh quan và vùng nước, trong khi Yonamoto có tỷ lệ không hài lòng cao với cơ sở vật chất không có rào cản. Ngược lại, Kohokudai có tỷ lệ người dân hài lòng cao với khả năng tiếp cận thiên nhiên và công viên (Hình-6).

Về mức độ hài lòng về mức độ tiện nghi bên ngoài khu nhà ở, Kohokudai có tỷ lệ không hài lòng thấp với các khu vực hồ nước, thiên nhiên và công viên. Sodegaura có tỷ lệ người dân hài lòng với diện tích các hồ nhỏ, trong khi tỷ lệ người dân ở Yonamoto hài lòng với công viên, cây xanh thấp. Nhìn chung, Shibayama có tỷ lệ không hài lòng cao (Hình-7) về tất cả các yếu tố bên ngoài khu nhà ở.

Về sự hài lòng trong cuộc sống, hạnh phúc và sức khỏe, mỗi tổ hợp nhà ở có tỷ lệ đánh giá về hạnh phúc cao hơn sức khỏe và sự hài lòng với cuộc sống. Ngoài ra, khi so sánh với ba khu nhà ở còn lại, Yonamoto có tỷ lệ cư dân không hài lòng với sức khỏe của mình cao hơn và tỷ lệ đánh giá mức độ hài lòng với cuộc sống thấp hơn. Mặt khác, Shibayama có tỷ lệ đánh giá mức độ hài lòng với cuộc sống cao hơn các khu nhà ở khác (Hình 8).

5. Phân tích nhân tố bằng SEM

Dựa trên mối quan hệ nhân quả giả định (Hình 1), một sơ đồ đường dẫn cơ bản đã được tạo lập và phân tích sơ bộ (GFL, CFI và RMSEA) đã được thực hiện để xác định sơ đồ đường dẫn tuyển dụng. Từ Hình 9 đến Hình 11 thể hiện kết quả phân tích nhân tố theo nhóm tuổi đối với những người ở độ tuổi 50, 60 và 70; Bảng 4 cho thấy tác động tổng thể của từng yếu tố đến hạnh phúc ở từng nhóm tuổi.

Từ kết quả về tác động tổng thể đến hạnh phúc, có thể thấy rằng sức khỏe có tác động đáng kể đến hạnh phúc ở mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng tăng theo độ tuổi. Đối với những người ở độ tuổi 70 trở lên, sự thuận tiện và các mối quan hệ xã hội ít ảnh hưởng đến hạnh phúc và tác động đến sự an toàn và thoải mái cũng rất nhỏ. Nguyên nhân được cho là hầu hết những người ở độ tuổi 70 trở lên đều đã nghỉ hưu; do đó, họ không đi làm hoặc đi học và có ít cơ hội đi chơi. Ngược lại, đối với những người ở độ tuổi 50 trở xuống, tác động của sự an toàn, thoải mái, các mối quan hệ xã hội và sự hài lòng trong cuộc sống lại tăng lên. Đối với những người ở độ tuổi 60, các mối quan hệ xã hội và khả năng kinh tế có tác động không nhỏ đến hạnh phúc.

Trong số những người ở độ tuổi 50, giờ làm việc và tần suất sử dụng phòng họp ở mức an toàn (lạc quan); thời gian tương tác trong khu nhà ở, thời gian ngủ và thời gian đi bộ/mua sắm thoải mái (lạc quan); và tương tác xã hội bên ngoài khu nhà ở có tác động tích cực đáng kể đến (lạc quan về) tình dục.

Ngoài ra, tần suất sử dụng công viên còn ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe và sự hài lòng trong cuộc sống. Trong số những người ở độ tuổi 60, sự thuận tiện/an toàn trong giờ làm việc; tần suất tham gia các lễ hội trong các mối quan hệ xã hội; tần suất sử dụng hội trường công cộng thuận tiện/thoải mái; và thời gian ở bên ngoài khu phức hợp nhà ở đều ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã hội và tần suất sử dụng không gian mở thì ảnh hưởng đến sự an toàn và các mối quan hệ xã hội. Số lượng thuốc lá hút có tác động tiêu cực đến sức khỏe, trong khi tần suất uống rượu lại có tác động tích cực. Trong số những người ở độ tuổi 70, thời gian ngủ là thư giãn/tiết kiệm sử dụng, thời gian đi bộ/mua sắm là an toàn, thời gian tập thể dục là thoải mái/tiết kiệm, tần suất tham gia lễ hội là an toàn/ xã hội và tần suất sử dụng hội trường công cộng cao. Sự an toàn, tiện nghi, các mối quan hệ xã hội, hiệu quả kinh tế và tần suất sử dụng phòng họp đều liên quan đến các mối quan hệ xã hội.

Ngoài ra, thời gian ngủ, thời gian đi bộ/mua sắm, lượng rượu tiêu thụ, tần suất tham gia các lễ hội và tần suất sử dụng hội trường/ phòng họp đều ảnh hưởng đến sức khỏe. Như đã mô tả ở trên, đối với mỗi nhóm tuổi, thói quen sinh hoạt, tần suất sử dụng các tiện ích khác nhau trong và xung quanh khu nhà ở cũng như tần suất tham gia các sự kiện cộng đồng ảnh hưởng đến nhiều yếu tố khác nhau (sự lạc quan), dẫn đến ảnh hưởng sức khỏe và hạnh phúc. Có thể thấy rằng thúc đẩy việc sử dụng các cơ sở vật chất trong và xung quanh các khu nhà ở phức hợp và thúc đẩy việc tham gia vào các sự kiện ở địa phương có thể cải thiện mức độ sức khỏe và hạnh phúc của từng nhóm tuổi. Tuy nhiên, mối quan hệ nhân quả và sức mạnh của nó khác nhau tùy theo độ tuổi - cần xem xét các biện pháp cải thiện cơ sở vật chất và thúc đẩy việc sử dụng và tham gia có tính đến lối sống và ý định của từng nhóm tuổi.

6. Tổng quan và tóm tắt kết quả


Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã thực hiện một cuộc khảo sát bằng bảng câu hỏi nhắm vào cư dân của bốn khu nhà cho thuê UR ở tỉnh Chiba từ các địa điểm khác nhau và với những đặc điểm cư dân khác nhau được đánh giá một cách chủ quan về sự hài lòng trong cuộc sống, hạnh phúc và sức khỏe cũng khác nhau. Ngoài việc tìm hiểu thực trạng của các chỉ số chủ quan, khách quan khác nhau và so sánh giữa các tổ hợp nhà ở, SEM còn được sử dụng để phân tích mối quan hệ nhân quả và các yếu tố theo nhóm tuổi.

Theo kết quả so sánh thực tế, về sự tiện lợi, Sodegaura có tỷ lệ hài lòng cao nhất trong khi Yonamoto có tỷ lệ không hài lòng cao nhất. Về vấn đề an toàn, Shibayama và Yonemoto lần lượt có tỷ lệ hài lòng và không hài lòng cao nhất. Về sự thoải mái trong khu nhà ở, Shibayama có tỷ lệ hài lòng cao nhất, trong khi Yonamoto có tỷ lệ không hài lòng cao nhất. Hơn nữa, tỷ lệ đánh giá về mức độ hạnh phúc cao hơn tỷ lệ đánh giá về sự hài lòng đối với sức khỏe và cuộc sống ở tất cả các khu nhà ở.

Phân tích nhân tố cho thấy mức độ sức khỏe có tác động lớn đến mức độ hạnh phúc của cư dân ở mọi lứa tuổi còn sự thuận tiện, an toàn, thoải mái và các mối quan hệ xã hội có tác động rất nhỏ đến mức độ hạnh phúc của những người ở độ tuổi 70 trở lên. Để cải thiện sự hài lòng về cuộc sống, sức khỏe và hạnh phúc của cư dân trong các khu phức hợp nhà cho thuê quy mô lớn ở ngoại ô đô thị, cần xây dựng các biện pháp có tính đến sở thích của từng nhóm tuổi. Trở thành (Bảng-4, Hình-11).

7. Kết luận trình bày các vấn đề trong tương lai và phương pháp triển khai

Trong tương lai, để sử dụng phương pháp nghiên cứu này như một công cụ đo lường hiệu quả của các giải pháp và biện pháp giảm thiểu các vấn đề phức tạp về nhà ở, cần phải tiến hành khảo sát bằng bảng câu hỏi nhắm vào số lượng lớn hơn các khu nhà ở phức hợp và cư dân và để phân loại các nhóm tuổi và thành phần hộ gia đình một cách chi tiết hơn.

Dựa trên những nghiên cứu này, cần phải phân tích các yếu tố và xem xét các biện pháp cụ thể nhằm hồi sinh các tổ hợp nhà ở nhằm cải thiện từng chỉ số khách quan ảnh hưởng đến sức khỏe và hạnh phúc.
Ngoài ra, trong cuộc khảo sát bảng câu hỏi về tổ hợp nhà ở, cần hiểu rõ các khía cạnh của sự hài lòng trong cuộc sống, sức khỏe và hạnh phúc, đồng thời thúc đẩy hơn nữa sự đóng góp của xã hội vào quy hoạch môi trường sống của người dân và cải thiện môi trường sống.


 

Hình-13 Phiên bản kế hoạch tương lai

Đây là sự đánh giá về tình hình hiện tại, những kế hoạch cho nỗ lực cải thiện môi trường trong tương lai vẫn chưa được thực hiện. Để đạt được mục tiêu đó, chúng ta cần hiểu rõ định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới WHO năm 2010 về “Thành phố đáng sống được quy định tại “Hệ thống các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sức khỏe” (Hình -12), khẳng định lại tầm quan trọng của nghiên cứu và xây dựng kịch bản phát triển trong tương lai (Hình - 13) cùng với cuộc điều tra khảo sát tiếp theo.
Đánh giá
Khi thực hiện nghiên cứu này, chúng tôi đã được nhận được sự giúp đỡ hướng dẫn của Tiến sĩ Katsue Kojima, cựu giáo sư tại Đại học Nihon và và những góp ý sâu sắc của Tiến sĩ Tetsuji Sato, giáo sư tại Viện Công nghệ Chiba. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn hai Ngài Giáo sư Tiến sĩ.
 

Từ khóa: Tổ hợp nhà ở công cộng cho thuê, Sự hài lòng trong cuộc sống, Sức khỏe, Hạnh phúc, Quy hoạch môi trường nhà ở, Kế hoạch tương lai
* Đồng tác giả. Địa chỉ email: ri.tsuarch.
ix@gmail.com

GS. RITSU KATAYAMA*
Biên dịch NGUYỄN BÍCH HUỆ

(Nguồn tạp chí Quy hoach đô thị số 51))



TÀI LIỆU THAM KHẢO

Akira, A. (2014). Một nghiên cứu thực nghiệm về khả năng ứng dụng chỉ số “Hạnh phúc” vào quy hoạch đô thị và đất đai quốc gia. Tạp chí của Viện Quy hoạch Thành phố Nhật Bản, 49(3), 561-566. (bằng tiếng Nhật) Akira, Y., Junya, S., & Ryuzo, S. (1998). Đo lường chất lượng cuộc sống liên quan đến khu vực lân cận Số 33.

Tài liệu hội nghị thường niên của CPIJ 1998, 37-42. (bằng tiếng Nhật) Hiyama, K., & Katayama, R. (2017).

Một phân tích nhân tố về sự hài lòng chủ quan trong cuộc sống, sức khỏe và hạnh phúc của cư dân khu phức hợp nhà ở công cộng cho thuê UR ở Chiba Pref.

Tóm tắt Tài liệu Kỹ thuật của Hội nghị Thường niên AIJ No.7225, 555-556. (bằng tiếng Nhật) Junyi, Z., & Toshio, K. (2012).

 Khảo sát và Phân tích Nguyên nhân Tác động của QOL liên quan đến Sức khỏe cho Quản lý và Quy hoạch Đô thị Xúc tiến Y tế.

Tạp chí của Viện Quy hoạch Thành phố Nhật Bản, 47(3), 277-282. (bằng tiếng Nhật) Katayama, R. (2023).

Phân tích nhân tố sự hài lòng chủ quan về cuộc sống, sức khỏe và hạnh phúc của cư dân khu nhà ở công cộng cho thuê ở khu vực ngoại thành số 2.

 Tóm tắt tài liệu kỹ thuật của cuộc họp thường niên AIJ. (bằng tiếng Nhật) Myers, D. (1998).

 Xây dựng kiến thức về chất lượng cuộc sống cho quy hoạch đô thị.

Tạp chí của Hiệp hội Kế hoạch Hoa Kỳ, 54(3), 347-358. Tổ chức Y tế Thế giới. (2010).

Một khung khái niệm cho hành động đối với các yếu tố xã hội quyết định sức khỏe. Tổ chức Y tế Thế giới. p32.

 

Các tin khác

Tạp chí đang tạm dừng hoạt động theo quyết định của cơ quan chủ quản để hoàn thiện công tác nhân sự.
Yên Mô – Ninh Bình: Nâng cao chất lượng cuộc sống từ xây dựng nông thôn mới tại xã Yên Lâm
Yên Mô – Ninh Bình: Nâng cao chất lượng cuộc sống từ xây dựng nông thôn mới tại xã Yên Lâm

MTXD - Sau khi đạt chuẩn NTM nâng cao vào năm 2021, cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị từ xã đến các thôn, xóm đã tập trung mọi nguồn lực, huy động sự vào cuộc của nhân dân đến năm 2024 xã Yên Lâm, huyện Yên Mô đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu.

Hiện thực hóa quy hoạch đô thị sông Hồng
Hiện thực hóa quy hoạch đô thị sông Hồng

MTXD - Có thể nói Hà Nội ngày nay đang hội tụ đầy đủ trong mình nhiều yếu tố gồm cả thế và lực để hiện thực hóa khát vọng, hiện thực hóa mục tiêu xây dựng không gian hai bên sông Hồng trở thành “Biểu tượng phát triển mới của Thủ đô”.

Đô thị nén sự lựa chọn hình thái của các đô thị phát triển theo hướng sinh thái ở Việt Nam
Đô thị nén sự lựa chọn hình thái của các đô thị phát triển theo hướng sinh thái ở Việt Nam

MTXD - QCVN 01:2019 đã làm rõ nội dung về kiểm soát mật độ dân số trong các đồ án quy...

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khẩn trương ứng phó bão số 3
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khẩn trương ứng phó bão số 3

​MTXD - Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Công điện số 86/CĐ-TTg ngày 3-9-2024 chỉ đạo các bộ ngành, địa phương khẩn trương triển khai ứng phó bão số 3 năm 2024.