Tiếp cận hệ thống để chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn

MTXD - Bài viết sử dụng cách tiếp cận hệ thống để nghiên cứu, phân tích và đề xuất các giải pháp nhằm khởi động cho tiến trình chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn để thực hiện thành công chủ trương về khuyến khích phát triển kinh tế tuần hoàn trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030 của Việt Nam.

MTXD - Bài viết sử dụng cách tiếp cận hệ thống để nghiên cứu, phân tích và đề xuất các giải pháp nhằm khởi động cho tiến trình chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn để thực hiện thành công chủ trương về khuyến khích phát triển kinh tế tuần hoàn trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030 của Việt Nam. Dựa trên cơ sở hệ thống hóa lại cơ sở khoa học, thực tiễn ở Việt Nam liên quan đến phát triển đô thị tuần hoàn bài viết đề xuất các giải pháp hệ thống để khởi động cho tiến trình chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn ở Việt Nam.

Từ khóa: Đô thị tuần hoàn; Kinh tế tuần hoàn; Tiếp cận hệ thống.

1.Đặt vấn đề

Thuật ngữ kinh tế tuần hoàn được đề cập từ những năm 1970 và ngày càng được sử dụng phổ biến, đến nay đã có nhiều nghiên cứu, hội thảo và quan niệm về khái niệm này [1]. Theo Quỹ Ellen MacArthur (2015) thì kinh tế tuần hoàn là một hệ thống công nghiệp được phục hồi và tái tạo theo thiết kế, dựa trên ba nguyên tắc chính là bảo tồn và tăng cường vốn tự nhiên, tối ưu hóa năng suất tài nguyên và thúc đẩy hiệu quả của hệ thống [2]. Mô hình kinh tế tuyến tính (linear economy) chỉ quan tâm đến việc khai thác tài nguyên, sản xuất và vứt bỏ sau tiêu thụ, dẫn đến việc tạo ra một lượng phế thải khổng lồ thì mô hình kinh tế tuần hoàn chú trọng việc quản lý và tái tạo tài nguyên theo một vòng khép kín nhằm tránh tạo ra phế thải. Việc tận dụng tài nguyên được thực hiện bằng nhiều hình thức như sửa chữa (repair), tái sử dụng (reuse), tái chế (recycle), và thay vì sở hữu vật chất thì hướng đến chia sẻ (sharing) hoặc cho thuê (leasing). Trong bối cảnh hiện nay, chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính sang nền kinh tế tuần hoàn là cách tiếp cận hữu hiệu để giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế với môi trường, tạo ra khả năng phục hồi lâu dài, cơ hội kinh doanh cũng như mang lại những lợi ích môi trường và xã hội [1]. Tiếp cận đô thị tuần hoàn là cách tiếp cận tiềm năng để khởi động cho quá trình chuyển đổi để hướng đến kinh tế tuần hoàn. Tại Việt Nam, xu hướng đô thị hóa đang và sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ ở các thành phố kèm theo cả những hệ quả tích cực và tiêu cực, trong đó, các tác động tiêu cực về môi trường đô thị được dự báo là sẽ tiếp tục gia tăng mạnh trong thời gian tới. Do vậy, bài viết trình bày về “tiếp cận hệ thống để chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn” nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận, tìm ra cách tiếp cận phù hợp và thảo luận về chính sách thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030 của Việt Nam [3], Điều 142 về kinh tế tuần hoàn trong Luật Bảo vệ môi trường 2020 [4].

2. Tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

Các cách tiếp cận được sử dụng trong nghiên cứu gồm: tiếp cận hệ thống kinh tế (Hình 1), tiếp cận từ dưới lên, tiếp cận từ trên xuống và tiếp cận dựa vào thị trường để phân tích, đánh giá và đề xuất các giải pháp thúc đẩy sự tham gia của tất cả các bên gồm sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, chính phủ và các tổ chức xã hội nhằm thực hiện mục tiêu chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn ở Việt Nam.

 Hình 1. Tiếp cận hệ thống để nghiên cứu kinh tế tuần hoàn

 Nguồn: Bariel Field, 1994

Phương pháp chính được sử dụng gồm: (i) Phương pháp nghiên cứu tại bàn (desk study) được dùng để nghiên cứu từ các nguồn tài liệu đã công bố bởi cơ quan chính phủ, tổ chức trong nước và quốc tế, các công bố của các nhà khoa học; (ii) Tham vấn chuyên gia được sử dụng thông qua hình Môi trường thiên nhiên Người sản xuất Người tiêu thụ Nguyên Liệu Chất thải (RP) Hàng hoá (G) Chất thải (RC) Thải bỏ (RP d ) Thải bỏ (RC d ) Đã tái tuần hoàn (Rr p) Đã tái tuần hoàn (Rr c) Môi trường thiên nhiên thức tham vấn với các chuyên gia trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế; các hiệp hội và doanh nghiệp về nhựa, giấy, trồng trọt, chăn nuôi, công nghiệp và dịch vụ môi trường, kinh tế môi trường, tác động chính sách thông qua các buổi họp, tọa đàm; (iii) Phương pháp phân tích chính sách được sử dụng để chỉ ra sự tồn tại hoặc chưa tồn tại, sự phù hợp hoặc chưa phù hợp, tính đồng bộ và khoảng trống chính sách để thực hiện đô thị tuần hoàn. Nguồn dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này là nguồn thứ cấp được công bố chính thức của các cơ quan, đơn vị, cá nhân về chủ đề nghiên cứu.

3. Kết quả nghiên cứu cơ sở lý luận về đô thị tuần hoàn

3.1. Động lực chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn

Các động lực thúc đẩy thực hiện đô thị tuần hoàn bao gồm (Hình 2) [1]: (i) Đô thị hóa - sự mở rộng các khu vực đô thị, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ tạo ra áp lực lên môi trường khi các nguồn lực hữu hạn cần được kéo dài để đáp ứng các hoạt động và dân số nhiều hơn; (ii) Các rủi ro về nguồn cung và giá cả - các hoạt động kinh tế đô thị dễ bị tổn thương bởi những gián đoạn về nguồn cung đối với các nguồn nguyên liệu thô, kéo theo tăng giá; (iii) suy thoái hệ sinh thái - hầu hết các rác thải bao gồm chất thải rắn, chất lỏng, chất hữu cơ và chất thải nguy hại được kết thúc bằng hình thức chôn lấp tại các bãi rác, qua đó tạo ra gánh nặng lên hệ sinh thái trong bối cảnh của biến đổi khí hậu, suy giảm đa dạng sinh học, suy thoái đất và ô nhiễm; (iv) Trách nhiệm với môi trường ở cả khu vực kinh doanh và chính phủ đang có xu hướng gia tăng nhận thức về trách nhiệm đối với môi trường; (v) Hành vi của người tiêu dùng đang có chiều hướng thay đổi; (vi) Sự thuận lợi về công nghệ - Nên tảng số cho phép các nguyên tắc của kinh tế tuần hoàn được áp dụng ở phạm vi rộng hơn qua việc cải thiện khả năng tiếp cận thông tin, quản lý các nguyên liệu, theo dõi và phục vụ, chuyển đổi và trách nhiệm, hỗ trợ triển khai thực hiện các giải pháp đổi mới.

 Hình 2. Động lực chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn

Nguồn: OECD, [5]

Theo OECD, khu vực đô thị chiếm gần 2/3 nhu cầu tiêu thụ năng lượng toàn cầu, tạo ra hơn 80% lượng khí thải nhà kính và hơn 50% chất thải toàn cầu [6]; đến năm 2030 có 6 trong 10 người sẽ sống ở các khu vực đô thị. Tuy nhiên, các đô thị đang phải đối mặt với những tác động về chất thải do sự vận hành của hệ thống kinh tế tuyến tính truyền thống. Tiếp cận hệ thống chuyển đổi sang “kinh tế tuần hoàn” là một trong những ưu tiên để kích hoạt tiến trình chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn được nhiều quốc gia tiếp cận như Amsterdam của Hà Lan, Paris của Pháp,... Theo thống kê, riêng năm 2016, các đô thị trên thế giới tạo ra 2,01 triệu tấn chất thải rắn, ước tính khoảng 0,74 kg/người/ngày. Với tốc độ gia tăng dân số và đô thị hóa nhanh, chất thải phát sinh hàng năm ước tính sẽ tăng 70% so với năm 2016 lên mức 3,4 triệu tấn vào năm 2050 [7]. Theo Ngân hàng Thế giới (2019), các đô thị ở các nước đang phát triển đối mặt nhiều hơn đối do quản lý chất thải không bền vững, với trên 90% chất thải thường xuyên được xử lý bằng hình thức chôn lấp trong các bãi rác không được kiểm soát hoặc đốt rác công khai. Chính vì vậy, chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn là hết sức cần thiết để xây dựng các thành phố bền vững và đáng sống, tạo ra giá trị gia tăng mới, việc làm mới. Chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn có thể giúp làm giảm 55% lượng khí thải CO2 vào năm 2020, biến khí thải thành khí tự nhiên vào năm 2040, sử dụng năng lượng tái tạo, tái chế tất cả chất thải và duy trì các di sản đã xây dựng hiện có bằng cách lấy tất cả vật liệu từ việc phá dỡ của các công trình cũ.

3.2. Đô thị tuần hoàn

Theo Tổ chức Ellen Macathur Foundation (2015) thì nền kinh tế tuần hoàn là một hệ thống công nghiệp với sự phục hồi và tái tạo thông qua thiết kế dựa trên 3 nguyên tắc chính là [8] (i) Bảo tồn và tăng cường vốn tự nhiên thông qua kiểm soát các tài sản hữu hạn và cân bằng các dòng tài nguyên tái tạo nhằm tạo đòn bẩy để tái tạo, số hóa và trao đổi; (ii) tối ưu hóa năng suất tài nguyên thông qua tuần hoàn các sản phẩm, các linh kiện và nguyên liệu trong sử dụng ở mức lợi ích cao nhất ở mọi lúc trong cả chu trình kỹ thuật và sinh học; và (iii) thúc đẩy hiệu quả của toàn hệ thống bằng cách tối thiểu hóa và thiết kế để loại bỏ các ngoại ứng tiêu cực. Khái niệm và nguyên tắc của kinh tế tuần hoàn có thể được áp dụng vào cấp độ đô thị bởi tính cấp thiết, dự báo xu hướng đô thị hoá nhằm đạt được các mục tiêu của phát triển bền vững. Thuật ngữ đô thị tuần hoàn được sử dụng trong Tuyên bố về đô thị tuần hoàn ở châu Âu. Theo đó “đô thị thúc đẩy quá trình chuyển đổi từ kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn theo hướng tích hợp tất cả các chức năng, với sự hợp tác của dân cư đô thị, cộng đồng doanh nghiệp và giới nghiên cứu nhằm thúc đẩy các mô hình kinh doanh và hành vi kinh tế để tách rời sử dụng tài nguyên từ các hoạt động kinh tế thông qua duy trì giá trị và lợi ích càng dài càng tốt để đóng các vòng lặp vật liệu và tối thiểu hóa sử dụng tài nguyên và giảm phát sinh chất thải nguy hại. Thông qua quá trình chuyển đổi này đô thị tìm kiếm các cải thiện phúc lợi con người, giảm phát thải, bảo vệ và tăng cường đa dạng sinh học, thúc đẩy xã hội bao trùm phù hợp với các mục tiêu phát triển bền vững” [9]. Tổng quan tài liệu nghiên cứu cho thấy, một đô thị tuần hoàn chứa đựng các đặc trưng cơ bản sau đây:

(i) Một đô thị tuần hoàn đáp ứng các nguyên tắc của kinh tế tuần hoàn với đầy đủ các chức năng và thiết lập được một hệ thống đô thị tái sinh, phục hồi, nhằm tạo ra sự thịnh vượng và khả năng phục hồi kinh tế cho chính đô thị đó, người dân và đồng thời tạo ra xu hướng sự tách rời giữa tăng trưởng kinh tế với mức độ sử dụng tài nguyên, lượng chất thải ra môi trường thông qua việc tạo ra giá trị cao hơn từ các nguồn lực hữu hạn [1], [12].

(ii) Một đô thị tuần hoàn đòi hỏi một tiến trình khuyến khích sử dụng tư duy hệ thống để cung cấp các lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường đối với người dân, đồng thời cũng tìm cách cải thiện chất lượng cuộc sống [10], [9], [12] .

(iii) Mô hình đô thị tuần hoàn nhìn nhận tầm quan trọng của việc vận hành các hệ thống của đô thị tương tự như việc vận hành các hệ thống tự nhiên (nơi “không có gì là chất thải”). Mô hình kết hợp các nguyên tắc của kinh tế tuần hoàn, thiết lập một hệ thống đô thị có khả năng tái tạo và dễ tiếp cận, nhưng điều này là một cách tiếp cận hệ thống mà không phải là tổng hợp đơn giản các dự án đô thị tuần hoàn [10].

Hình 3. Mô phỏng chuyển đổi từ kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn

 Nguồn: Andrea MarcelloBasi, 2020 [13]

(iv) Đô thị tuần hoàn tập trung vào các dòng vật chất và năng lượng trong sản xuất hàng hóa và dịch vụ như thiết kế sản phẩm, thiết kế sinh thái và sử dụng các vật liệu tương thích với sinh thái, quy trình sản xuất tương thích với sinh thái…, để kéo dài giá trị sử dụng của tài nguyên (thông qua tái sử dụng, sửa chữa, v.v.) và quản lý chất thải. Môi trường xây dựng của đô thị được thiết kế theo những mô-đun và mang tính linh hoạt; hệ thống năng lượng có khả năng phục hồi và tái tạo, giúp giảm chi phí và tạo ra các tác động tích cực đến môi trường tự nhiên; hệ thống giao thông đô thị dễ tiếp cận, chi phí hợp lý và hiệu quả; hệ thống sản xuất và tiêu dùng khuyến khích tạo ra “vòng giá trị lặp theo địa phương và giảm thiểu chất thải” [2], [1].

(v) Quy hoạch đô thị đóng một vai trò là nền tảng, góp phần kích thích quá trình tuần hoàn ở nhiều quy mô khác nhau thông qua tiếp cận có hệ thống và giống cách tiếp cận của công nghiệp sinh thái, nghĩa là, phân tích dòng chảy và sự phối hợp khả thi từ theo không gian gần. Do đó, quy hoạch đô thị có thể góp phần đáng kể vào việc kích hoạt các dòng năng lượng, vật liệu, dịch vụ, con người để xúc tác phát triển kinh tế. Cùng với đó, sự tham gia của người dân vào quy hoạch đô thị là nền tảng [10].

Như vậy, đô thị tuần hoàn là một cách tiếp cận cho phép giúp giải quyết đồng lợi ích liên quan tới bất bình đẳng xã hội và khủng hoảng sinh thái. Chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn có thể giúp đạt được mục tiêu bền vững môi trường, sinh thái với mục tiêu công bằng xã hội, giảm bất bình đẳng xã hội. Nói cách khác, đô thị hướng tới việc quản lý toàn diện để đạt được sự tách rời giữa các vấn đề môi trường và các vấn đề xã hội, để đảm bảo phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của tất cả mọi người (Hình 4).

Hình 4. Kinh tế tuần hoàn thúc đẩy xu hướng tách rời giữa kinh tế, sức khỏe người dân với sử dụng tài nguyên và tác động đến môi trường

Nguồn: Wijkman, 2019 [14]

Việc chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn đòi hỏi tất cả các bên liên quan bao gồm các tổ chức và cá nhân không chỉ suy nghĩ lại về việc sử dụng nguyên vật liệu, sản phẩm và tài sản mà còn phải thiết kế lại và áp dụng các mô hình quản trị, kinh doanh, tiêu dùng mới. Các mô hình kinh doanh theo hướng kinh tế tuần hoàn được thiết kế, vận hành dựa trên cơ sở vật chất hóa, tuổi thọ, tân trang, tái sản xuất, chia sẻ công suất và tăng cường tái sử dụng và tái chế. Cung cấp sản phẩm như một dịch vụ thay vì bán hàng là một mô hình kinh doanh theo vòng tròn trung tâm. Để đô thị chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn, mỗi đô thị cần thiết lập các chức năng, dịch vụ, cơ sở hạ tầng và các công cụ chính sách để hình thành và vận hành đô thị và tạo điều kiện cho hình thành các vòng lặp đô thị, tạo ra các mô hình kinh doanh tuần hoàn phù hợp với thể chế và đặc trưng của đô thị đó. Do đó, mỗi đô thị cần thay đổi tư duy từ phương thức lập kế hoạch, thiết kế và cung cấp cấp vốn cho sự vận hành hệ thống đô thị cũng như cách chúng được tạo ra, sử dụng và tái sử dụng.

3.3. Mô hình kinh doanh và rào cản cho thực hiện đô thị tuần hoàn đô thị

 Khi một quốc gia, một đô thị thiết lập được các điều kiện đồng bộ về thể chế, chính sách, hạ tầng sẽ thúc đẩy chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn và xuất hiện các mô hình kinh doanh theo hướng tuần hoàn như mô hình thiết kế tuần hoàn, mô hình sử dụng tối ưu tài nguyên, mô hình phục hồi giá trị và mô hình hỗ trợ tuần hoàn (Hình 5). Các mô hình này được vận hành trên nguyên tắc của thị trường, lấy lợi ích về kinh tế là động lực chính để hình thành và vận hành.

 Hình 5. Các mô hình kinh tế tuần hoàn phổ biến

Nguồn: cityloop [10]

Tại các đô thị, riêng lĩnh vực xây dựng đô thị có thể thúc đẩy 10 mô hình cụ thể như thiết kế công trình xanh, phát triển các phần mềm, mô hình tái tạo vật liệu xây dựng, mô hình tái chế vật liệu xây dựng, mô hình xây dựng sử dụng hiệu quả tài nguyên, tái chế các nguyên liệu dưa thừa, các mô hình dịch vụ tiết kiệm năng lượng, chia sẻ không gian, kéo dài tuổi thọ các tòa nhà và nâng cao vòng đời của các nguyên liệu, vật liệu [6].

Hình 6. Mô hình tuần hoàn điển hình trong lĩnh vực xây dựng đô thị

Nguồn: Ralph Büchele, Kai-Stefan Schober [15]

Các rào cản đối với việc thực hiện kinh tế tuần hoàn gồm: (i) nhóm các rào cản về khía cạnh tài chính như phi phí chuyển đổi cao, chi phí thu hồi vốn đầu tư chậm, gia tăng về giá thành sản phẩm và các biện pháp, khả năng kinh tế của tái chế; (ii) nhóm các rào cản về thể chế như sự tồn tại của tư duy của mô hình kinh tế tuyến tính truyền thống, quy định phức tạp và không linh hoạt, hạn chế về các hành động lồng ghép và trong lãnh đạo; (iii) nhóm các rào cản về xã hội như hạn chế về nhận thức và tầm nhìn, không chấp nhận sự thay đổi; (iv) nhóm các rào cản về kỹ thuật như hạn chế về sáng kiến để thiết kế các sản phẩm, sự lỗi thời của các kế hoạch, kỹ thuật bóc, tách sản phẩm, thiếu sự trao đổi về thông tin, thiếu số liệu để kiểm soát... [1].

4. Bàn luận về thực tiễn và khuyến nghị cho Việt Nam

4.1. Thực tiễn phát triển đô thị và sự cần thiết chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn

Giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước, nhu cầu về tài nguyên thiên nhiên như đất đai, khoáng sản, nước… cho phát triển KT-XH trong nước tiếp tục gia tăng. Vị trí, vai trò của đô thị ngày càng được khẳng định là động lực, đầu tàu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đóng góp khoảng 70% GDP của cả nước. Tính đến hết năm 2018, cả nước có 813 đô thị với dân số đô thị khoảng 33,83 triệu người, chiếm 35,7% dân số cả nước [16]; tỷ lệ đô thị hóa cả nước đạt khoảng 38,4% (tăng 0,9% so với năm 2017) [17]. Dự báo đến năm 2025 dân số đô thị sẽ đạt 42,04 triệu người, năm 2030 là 47,25 triệu người. Tỷ lệ đô thị hóa tăng dần và đạt 40,91% vào năm 2025 và 44,45% năm 2030, dự báo Việt Nam sẽ có 1 đô thị trên 10 triệu dân, 1 đô thị từ 5-10 triệu dân và 4 đô thị từ 1-5 triệu dân vào năm 2030 [17]”. Dân số tiếp tục gia tăng, vấn đề di cư từ nông thôn ra thành thị đang là sức ép lớn gây ra tình trạng quá tải với môi trường ở các đô thị. Cùng với đó, tăng trưởng các hoạt động kinh tế ở khu vực đô thị như xây dựng, công nghiệp, giao thông vận tải, y tế, thương mại - dịch vụ cũng như quá trình sử dụng và tiêu thụ năng lượng đã và đang tạo ra nhiều sức ép đối với môi trường [18], [19], [18], [7], cụ thể như sau:

- Đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ dẫn đến một số bất cập, như tình trạng mở rộng đô thị có mật độ thấp, sử dụng đất đai chưa hiệu quả, tính cạnh tranh của các đô thị không cao; số lượng đô thị tăng nhanh nhưng chưa đáp ứng được các yêu cầu của phát triển bền vững. Hình 7 cho thấy nhu cầu gia tăng về đất đai cho phát triển đô thị của Việt Nam đến năm 2025.

Hình 7. Định hướng phát triển đô thị và nhu cầu đất cho phát triển đến năm 2025

Nguồn: Quyết định số 445/2009/QĐ-TTg

- Hệ thống kết cấu hạ tầng chưa hoàn chỉnh và không đồng bộ, chưa thích ứng với các tác động của biến đổi khí hậu. Đặc biệt, vấn đề quy hoạch phát triển đô thị theo hướng phát triển bền vững, gắn với bảo vệ môi trường vẫn đang đứng trước nhiều thách thức. Một trong những thách thức lớn nhất là số lượng đô thị tăng lên nhưng chất lượng của các đô thị chưa được quan tâm đúng mức. Phát triển đô thị chưa được kiểm soát chặt chẽ theo quy hoạch và kế hoạch [17], [3], [20]. - Theo báo cáo hiện trạng môi trường hàng năm do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố cho thấy, khối lượng chất thải (nước thải, khí thải, chất thải rắn) ở các đô thị ngày càng gia tăng [21], [18], [22], [7].

Bảng 1 cho thấy ví dụ về hiện trạng dân số và phát sinh chất thải rắn sinh hoạt tại các đô thị ở Việt Nam theo vùng năm 2019 của Việt Nam.Thành phần chất thải rắn sinh hoạt của Việt Nam rất đa dạng, tuỳ thuộc vào từng loại hình đô thị. Trong đó chất hưu cơ chiếm khoảng 50 - 60% (Hà Nội là 51,9%, Hải Phòng 46 - 49,8%), tiếp đó là nhựa và nilong từ 3 - 10% (Hà Nội 3%, Hải Phòng 12,2 - 14,2%), tiếp đó là các loại chất thải khác như giấy và bìa cát tông, kim loại, thuỷ tinh, chất trơ, cao su, xác động thực vật và các loại chất thải khác [22] .

Bảng 1. Dân số và tình hình chất thải rắn sinh hoạt tại các đô thị ở Việt Nam phân theo vùng kinh tế - xã hội năm 2019

Nguồn: Bộ TNMT, 2020 [22]

 - Với xu hướng đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ kéo theo gia tăng dân số, thay đổi nhu cầu tiêu dùng, sẽ tạo ra những áp lực rất lớn đến môi trường tự nhiên, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam. Dựa trên dự báo về xu hướng dân số đô thị ở Việt Nam đến 2049 do Tổng cục Thống kê công bố [23], nghiên cứu sử dụng kịch bản thông thường về phát sinh chất thải (bao gồm lượng chất thải phát sinh bình quân người dân đô thị tối thiểu bằng mức trung bình của năm 2019 là 1,08 kg/người/ngày; việc quản lý chất thải đô thị vẫn áp dụng phổ biến hiện nay là “việc thu gom, xử lý nước thải, chất thải sinh hoạt còn thiếu đồng bộ; công nghệ xử lý chất thải phổ biến là chôn lấp, ủ phân hữu cơ và đốt như Hình 8 thì dự báo đến năm 2029, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh ước khoảng 17.675,66 triệu tấn/năm; năm 2034 là 19.657,53 triệu tấn/năm; năm 2039 là 21.598,22 triệu tấn/năm, năm 2044 là 23.463,18 triệu tấn/năm (Hình 9).

Hình 8. mô hình thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt áp dụng phổ biến trong các đô thị ở Việt Nam hiện nay Thu gom sơ cấp Điểm trung chuyển Thu gom thứ cấp Chốn lấp Vật liệu tái chế

Nguồn: Ngân hàng Thế giới, 2018 [7]

Hình 9. Dự báo gia tăng dân số đô thị và chất lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh theo kịch bản thông thường ở Việt Nam đến năm 2044

 Nguồn: tác giả tính toán, 2021

- Bên cạnh đó, sản xuất, tiêu dùng bền vững ở khu vực đô thị còn hạn chế. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, người dân trong chấp hành các quy định pháp luật về môi trường trong quá trình sản xuất, tiêu dùng còn hạn chế. Với những vấn đề đặt ra, xu hướng diễn biến dân số đô thị và phát sinh chất thải từ khu vực đô thị ở trên, nếu không có cách tiếp cận mới để giải quyết các vấn đề sẽ đặt ra áp lực lớn đến chất lượng đô thị trong thời gian tới. Trong đó, đáng lo ngại nhất là tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường, thiếu đất để chôn lấp chất thải, gia tăng các mối đe dọa đến an ninh môi trường, an ninh tài nguyên nước.

 4.2. Khuyến nghị để chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn ở Việt Nam

Dự báo trong tương lai, đô thị hóa ở Việt Nam tiếp tục gia tăng tạo áp lực về ô nhiễm, suy thoái môi trường; khối lượng chất thải, đặc biệt là chất thải rắn, sẽ tăng lên mạnh vừa là áp lực nhưng cũng là cơ hội để kích hoạt các mô hình đô thị tuần hoàn, phát triển các ngành công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường [21], [18], [20]. Để giải quyết vấn đề này, chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn ở cấp độ đô thị là phù hợp, đáp ứng yêu cầu cấp bách về môi trường đang đặt ra hiện nay. Giải pháp dựa trên cách tiếp cận hệ thống để chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn ở Việt Nam như sau (Hình 10):

Hình 10. Tiếp cận hệ thống chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn ở Việt Nam

Nguồn: tác giả, 2021

(i) Thực hiện các đột phá chiến lược ngay trong quá trình thiết kế, quy hoạch và vận hành phát triển các đô thị ở Việt Nam gồm:

- Về thể chế, pháp luật cần sớm đưa các công cụ chính sách dựa vào thị trường, đặc biệt là công cụ kinh tế, cơ chế tạo nguồn lực dựa vào thị trường đã được quy định trong hệ thống pháp luật hiện hành, đặc biệt là pháp luật về bảo vệ môi trường sửa đổi, vào thực tiễn để điều chỉnh hành vi của các bên liên quan theo hướng thân thiện với môi trường, thúc đẩy thu gom, phân loại, tái sử dụng, tái chế chất thải.

- Về nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo thông qua đầu tư đầu tư, hỗ trợ vào nghiên cứu khoa học, phát triển ứng dụng, chuyển giao công nghệ và sản xuất thiết bị, đào tạo nhân lực để thực hiện kinh tế tuần hoàn; cung cấp nền tảng chia sẻ thông tin, dữ liệu về kinh tế tuần hoàn tại các đô thị hướng đến đô thị không chất thải, đô thị thông minh.

- Về hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị cần thiết kế, xây dựng đồng bộ các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị, áp dụng các công nghệ mới, các nguyên liệu thay thế, sản phẩm mới thân thiện với môi trường.

(ii) Thúc đẩy quản lý chất thải đô thị thông qua áp dụng các biện pháp quản lý để thúc đẩy tái sử dụng, tái chế các chất thải rắn để đưa rác thải thành tài nguyên với các ưu tiên về chất thải kim loại, nhựa, chất thải điện tử, chất thải thực phẩm, nước thải và sinh khối.

(iii) Tạo điều kiện để khuyến khích phát triển các mô hình kinh doanh tuần hoàn tại đô thị thông qua các giải pháp hỗ trợ phát triển thị trường nguyên liệu, vật liệu thứ cấp; hỗ trợ thông tin, Tiêu dùng Kinh doanh tuần hoàn Quản lý chất thải đô thị (nước thải, chất thải rắn, khí thải) Hoàn thiện các đột phá chiến lược để phát triển đô thị tuần hoàn (thể chế, hạ tầng và khoa học, công nghệ) tạo điều kiện thuận lợi đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cộng sinh, mô hình kinh doanh theo hướng kinh tế tuần hoàn, mô hình liên kết đô thị với nông thôn.

 (iv) Chính quyền các đô thị nên tiên phong trong áp dụng chính sách tiêu dùng xanh thông qua việc thúc đẩy sử dụng các sản phẩm thân thiện môi trường, sản phẩm tái chế, tái sử dụng để thực hiện kinh tế tuần hoàn. Tăng cường các hoạt động truyền thông, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm xã hội trong tiêu dùng các sản phẩm thân thiện với môi trường, sản phẩm tái chế, tái sử dụng.

 (v) Việc chuyển đổi đô thị tuần hoàn ở Việt Nam nên khởi động đối với các đô thị lớn, đô thị mới thông qua việc lồng ghép các mục tiêu, tiêu chí và giải pháp của đô thị tuần hoàn vào ngay trong quá trình lập, xây dựng các quy hoạch, kế hoạch phát triển đô thị.

5. Kết luận

Chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn là một xu hướng tất yếu và đang nhận được sự hưởng ứng của nhiều quốc gia nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong bối cảnh của biến đổi khí hậu, dịch bệnh ngày càng gia tăng. Tiếp cận chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn đang là một xu hướng được khởi xướng ở nhiều quốc gia và được xem là chất xúc tác để dẫn dắt và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn thông qua việc tạo ra một tầm nhìn và chiến lược tuần hoàn, tối ưu hóa cơ sở hạ tầng và hệ thống hậu cần, liên kết các bên liên quan và cung cấp các khuyến khích, tạo điều kiện cho các sáng kiến tuần hoàn để mang lại các lợi ích cho chính đô thị. Để thực hiện chủ trương phát triển kinh tế tuần hoàn trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030 thì tiếp cận từ khu vực đô thị cần được xem là lựa chọn ưu tiên trong thời gian tới.

Chính phủ và chính quyền địa phương cần hoàn thiện thể chế, chính sách, phát triển hạ tầng đô thị đồng bộ, nhân lực và khoa học, công nghệ ngay trong giai đoạn thiết kế, xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đô thị nhằm thúc đẩy các mô hình kinh doanh tuần hoàn đô thị, khởi động cho tiến trình chuyển đổi sang đô thị tuần hoàn trên phạm vi cả nước để thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững.

LẠI VĂN MẠNH*  TRẦN HỮU CƯỜNG**  VŨ ĐỨC LINH***  LẠI XUÂN DŨNG****

Tài liệu tham khảo

1. William McDonough, Circular Economy in Cities Evolving the model for a sustainable urban future, Switzerland: World Economic Forum, 2018.

2. Andrew Morl, Delivering the circular economy: a toolkit for policymakers, Foundation Ellen MacArthur, 2015.

 3. Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 13, "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030," [Online].

 4. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa 14, "Luật Bảo vệ môi trường", 17 11 2020. [Online]. Available: https://thuvienphapluat.vn/. [Accessed 2021 9 12].

5. Oriana Roman, The Circular Economy in Cities and Regions, 2021.

 6. The OECD Centre for Entrepreneurship SMEs Regions and Cities, "OECD.," 2019. [Online].

7. World Bank, "Solid Waste Management," 1 3 2019. [Online]. Available: https://www. worldbank.org/en/topic/urbandevelopment/brief/solid-waste-management.

8. S. H. R. O. Andrew Morlet, "Delivering the Circular Economy A toolkit for policy makers," Ellen MacArthur Foundation,, 2015.

9. Circularcities Declaration. [Online]. Available: https://circularcitiesdeclaration.eu/citiesand-the-circular-economy/what-is-a-circular-city.

10. Cityloop, "What is a Circular City?," [Online]. Available: https://cityloops.eu/what-is-acircular-city.

11. Byström Jonas, The 15 circular economy steps for city, European Investment Bank, 2018.

 12. ISPONRE Việt Nam, "Báo cáo cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế về kinh tế tuần hoàn, "ISPONRE - HSF, Hà Nội, 2020. Andrea MarcelloBasi, "Improving the understanding of circular economy potential at territorial level using systems thinking," Sustainable production and consumption, vol. 27, no. 7/2021, pp. 128-140, 2020.

13. Anders Wijkman, Circular Economy in Cities requires, OECD, 2019.

 14. Ralph Büchele and Kai-Stefan Schober, "It's the time for construction to embrace the circular economy," 11 2 2021. [Online]. Available: https://www.rolandberger.com/en/ Insights/Publications/It%E2%80%99s-time-for-construction-to-embrace-the-circular-economy. html.

 15. Doãn Thành, "Tỷ lệ đô thị hóa năm 2019 sẽ đạt 40%," 16 2 2019. [Online]. Available: http://kinhtedothi.vn/ty-le-do-thi-hoa-nam-2019-se-dat-40-336325.html.

 16. Ban các vấn đề Xã hội và Môi trường, "Xu hướng đô thị hóa ở Việt Nam giai đoạn 2021- 2030 và một số hệ lụy," Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia, 26 12 2019. [Online]. Available: http://ncif.gov.vn/Pages/NewsDetail.aspx?newid=21873. [Accessed 13 9 2021].

 17. Bộ TN&MT, "Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2016: chuyên đề môi trường đô thị," Nxb Tài nguyên và Môi trường, Hà Nội, 2017.

18. N. T. Lăng, "Nhận diện vấn đề đô thị và quản lý phát triển đô thị khi đất nước dần trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Tạp chí cộng sản, 2021.

19. Nguyễn Quang, "Quản lý chất thải rắn: Vấn đề nóng của đô thị Việt Nam," Tạp chí Nhịp cầu và Đầu tư, pp. https://nhipcaudautu.vn/song/quan-ly-chat-thai-ran-van-de-nong-cua-do-thiviet-nam-3326176/, 2018.

* Nghiên cứu viên, Trưởng ban Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, email: lv.manh82@gmail.com.

** Học viện Nông nghiệp Việt Nam.

*** Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường.

**** UBND phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

Các tin khác

Tạp chí đang tạm dừng hoạt động theo quyết định của cơ quan chủ quản để hoàn thiện công tác nhân sự.
Yên Mô – Ninh Bình: Nâng cao chất lượng cuộc sống từ xây dựng nông thôn mới tại xã Yên Lâm
Yên Mô – Ninh Bình: Nâng cao chất lượng cuộc sống từ xây dựng nông thôn mới tại xã Yên Lâm

MTXD - Sau khi đạt chuẩn NTM nâng cao vào năm 2021, cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị từ xã đến các thôn, xóm đã tập trung mọi nguồn lực, huy động sự vào cuộc của nhân dân đến năm 2024 xã Yên Lâm, huyện Yên Mô đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu.

Hiện thực hóa quy hoạch đô thị sông Hồng
Hiện thực hóa quy hoạch đô thị sông Hồng

MTXD - Có thể nói Hà Nội ngày nay đang hội tụ đầy đủ trong mình nhiều yếu tố gồm cả thế và lực để hiện thực hóa khát vọng, hiện thực hóa mục tiêu xây dựng không gian hai bên sông Hồng trở thành “Biểu tượng phát triển mới của Thủ đô”.

Đô thị nén sự lựa chọn hình thái của các đô thị phát triển theo hướng sinh thái ở Việt Nam
Đô thị nén sự lựa chọn hình thái của các đô thị phát triển theo hướng sinh thái ở Việt Nam

MTXD - QCVN 01:2019 đã làm rõ nội dung về kiểm soát mật độ dân số trong các đồ án quy...

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khẩn trương ứng phó bão số 3
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khẩn trương ứng phó bão số 3

​MTXD - Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Công điện số 86/CĐ-TTg ngày 3-9-2024 chỉ đạo các bộ ngành, địa phương khẩn trương triển khai ứng phó bão số 3 năm 2024.