Về việc tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về du lịch
MTXD - Từ khoá: Du lịch, chính sách, chính sách du lịch, pháp luật về du lịch
Tóm tắt
Sứ mạng phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn mang lại nguồn thu lớn cho quốc gia đang đặt ra yêu cầu tháo gỡ những nút thắt cho hoạt động du lịch, trong đó các vấn đề chính sách, pháp luật với vai trò định hình hệ thống, chìa khoá hành động là hết sức quan trọng.
Với 3 phần, bài viết đi từ việc bàn luận về kết quả xây dựng chính sách, pháp luật du lịch của Việt Nam từ năm 2017 tới nay đến trình bày quan điểm định hướng hoàn thiện và một số nội dung chính sách, pháp luật du lịch cần tiếp tục hoàn thiện.
Qua việc bao quát tương đối toàn diện hệ thống văn bản chính sách, pháp luật du lịch, từ Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị “về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”; Luật Du lịch sửa đổi ban hành năm 2017 cho tới hệ thống các Nghị định, Thông tư hướng dẫn cụ thể một số điều luật và thi hành Luật Du lịch 2017, hệ thống Nghị quyết, Quy hoạch tổng thể, Chiến lược, Kế hoạch tổng thể thúc đẩy phát triển du lịch, hệ thống chính sách cho du lịch… của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tham luận khẳng định tới nay hệ thống chính sách, pháp luật về du lịch của Việt Nam đã được xây dựng bài bản, làm rõ các nội dung quan trọng, có sự phân công, phân cấp trách nhiệm về mặt Nhà nước đối với bộ máy chính quyền, đoàn thể các cấp; các cơ quan chuyên môn du lịch và liên quan. Cùng với hệ thống chính sách, pháp luật du lịch, chúng ta cũng có một “thế trận” hành động thống nhất về phát triển du lịch trên toàn quốc.
Du khách quốc tế đến Hà Nội ngày càng tăng -Ảnh Internet
Quan điểm về định hướng hoàn thiện chính sách, pháp luật du lịch của bài viết là hướng tới định hướng lâu dài, nhưng đặc biệt là phải hướng tới việc tạo thực hiện những nhiệm vụ đề ra trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 và Chương trình hành động phát triển du lịch giai đoạn 2021- 2025 nhằm tạo sự đồng thuận, thống nhất trong nhận thức và hành động trên toàn quốc. Trong đó nhấn mạnh vào khả năng vận dung tư duy chung để tạo ra hành động riêng, phù hợp, hiệu quả trong khai thác tài nguyên và tổ chức du lịch của các địa phương; tầm quan trọng của mức độ lồng ghép các nội dung liên quan đến phát triển du lịch trong các chiến lược, chương trình, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, trong hoạt động của các ban, ngành, đoàn thể tại địa phương.
Một số nội dung cần bổ sung, hoàn thiện về chính sách, pháp luật du lịch gồm: Về nguyên tắc tổ chức du lịch: Tổ chức du lịch theo hướng phát triển du lịch bền vững; cần áp dụng nguyên tắc “du lịch có trách nhiệm” như một nguyên tắc hoạt động thường nhật, lâu dài để đạt được định hướng phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam; Về chính sách du lịch: Tiếp tục bổ sung các chính sách đối với du lịch đề cập ở Luật Du Lịch 2017 bằng dạng chính sách cụ thể của Nhà nước có tính đặc thù, dài hơi cho du lịch; Về xây dựng sản phẩm du lịch: Sản phẩm du lịch khâu cần được đầu tư nâng cao chất lượng cũng như làm mới sản phẩm. Cần quy định làm rõ hơn khoản 1 Điều 18 của Luật Du lịch 2017, xây dựng chính sách phát triển cho các loại hình sản phẩm du lịch gắn với đặc thù loại hình, lợi thế vùng của các sản phẩm tại các địa phương, vùng miền; Về tổ chức hoạt động du lịch: Trong điều kiện bình thường mới hiện nay, cần phát triển du lịch Việt Nam trên cả hai phương diện quốc tế và nội địa. Trong đó du lịch quốc tế là kênh quảng bá, là nguồn thu quốc gia; du lịch nội địa là nguồn duy trì và thúc đẩy hoạt động, hình thành thói quen, nhu cầu du lịch trên diện rộng dân số, tạo đời sống xã hội về du lịch ở Việt Nam. Cần nhìn nhận du lịch không chỉ đơn thuần là hoạt động mang lại các giá trị kinh tế mà là nhiều giá trị về phát triển con người đưa đến những bình ổn tích cực nếu được tổ chức đúng hướng và quản lý tốt. Du lịch cũng có thể là một hoạt động thể hiện trách nhiệm xã hội trên phương diện chi tiêu nhằm đóng góp chung vào sự phát triển.
Kết luận của bài viết khẳng đinh: Hệ thống chính sách, pháp luật về du lịch của Việt Nam hiện được xây dựng bài bản, đáp ứng các nội dung trọng tâm và cập nhật xu hướng thế giới. Các cơ quan có trách nhiệm xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật du lịch đã làm việc có trách nhiệm, đưa ra được các văn bản đảm bảo tính nguyên tắc và vận dụng hiệu quả. Việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về du lịch chủ yếu là làm sâu sắc, cụ thể hơn các vấn đề đã được đặt ra và bổ sung một số nội dung cần thiết, nhất là trên phương diện chính sách để xử lý phát sinh trong bối cảnh bình thường mới.
Nội dung
1. Bàn về kết quả xây dựng chính sách, pháp luật du lịch từ năm 2017 đến nay
Từ Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị “về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn” (gọi tắt là Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về du lịch) mang tính lịch sử, đóng vai trò chỉ đạo dẫn lối, mở ra một giai đoạn mới cho hoạt động du lịch gắn chặt với xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá xã hội.
Luật Du lịch sửa đổi ban hành năm 2017 của Quốc hội (gọi tắt là Luật Du lịch 2017) là sự thể chế hoá tinh thần sâu sắc của Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về du lịch, tạo nên sự bổ sung sửa đổi sát với yêu cầu của thực tiễn, “cởi trói” và thúc đẩy hoạt động du lịch của Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp.
Với quan điểm đặt khách du lịch làm trung tâm, hướng tới cơ chế thị trường trong du lịch, Luật Du lịch 2017 đã điều chỉnh các quy định về quản lý khu du lịch, điểm du lịch, kinh doanh dịch vụ lữ hành, hướng dẫn viên du lịch, kinh doanh các dịch vụ du lịch khác để bảo đảm an ninh, an toàn, quyền và lợi ích hợp pháp của khách du lịch. Hệ thống thể chế về Du lịch nhìn chung đều hướng đến đảm bảo theo quy luật phát triển thị trường và tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng, doanh nghiệp đầu tư kinh doanh du lịch.
Về công nhận khu du lịch, điểm du lịch: Luật Du lịch 2017 (Điều 23, 24) quy định về việc công nhận cơ sở du lịch khi đủ điều kiện tiêu chí về cơ sở vật chất của một điểm đến du lịch. Phân cấp công nhận khu du lịch quốc gia được giao thẩm quyền cho Bộ trưởng Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch, Chủ tịch UBND tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương quyết định công nhận khu du lịch cấp tỉnh và điểm du lịch. Điều kiện công nhận điểm du lịch cũng đã được quy định cụ thể tại Điều 11 Nghị định 168/2017 của Chính phủ. Việc ban hành Nghị định về mô hình quản lý khu du lịch quốc gia đã hoàn thành; trên cơ sở này nhiều tỉnh/ thành cũng đã hoàn thành việc xây dựng quy định về mô hình quản lý khu du lịch cấp tỉnh và điểm du lịch.
Về xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch: Luật Du lịch 2017 khuyến khích tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo quyền lợi của khách du lịch trên cơ sở tôn trọng quy luật thị trường, nhưng chỉ đưa ra quy định điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ đối với cơ sở lưu trú nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ tối thiểu đối với mọi cơ sở lưu trú du lịch, việc khẳng định chất lượng dịch vụ, thương hiệu của cơ sở lưu trú sẽ xác định qua xếp hạng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi cơ sở có đề nghị. Đây là sự tạo điều kiện dễ nhất cho các cơ sở kinh doanh lưu trú du lịch.
Trong điều kiện du lịch nội địa trở thành nhu cầu tương đối phổ biến của một phần dân số Việt Nam, Luật Du lịch 2017 đã bổ sung thêm quy định cấp giấy phép kinh doanh lữ hành nội địa nhằm có biện pháp quản lý giải quyết tình trạng hoạt động du lịch nội địa không đảm bảo chất lượng. Việc cấp phép kinh doanh dịch vụ lữ hành trong nước và quốc tế cũng đã được đơn giản hóa khi doanh nghiệp chỉ cần gửi hồ sơ trực tiếp đến Tổng cục Du lịch và nhận lại kết quả. Việc cấp biển hiệu cho phương tiện vận tải khách du lịch được giao thẳng cho Sở Giao thông vận tải thực hiện trên cơ sở quy định của Thông tư liên tịch của hai ngành Văn hoá và Giao thông vận tải. Việc cấp biển hiệu cũng được cho phép đối với tất cả các cơ sở cung cấp dịch vụ khi có nhu cầu và đáp ứng các tiêu chí theo quy định.
Luật Du lịch 2017 cũng đã có những điều chỉnh, bổ sung quy định về điều kiện hành nghề và điều kiện cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch chặt chẽ hơn. Theo đó, hướng dẫn viên phải làm việc theo hợp đồng với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hướng dẫn du lịch, hoặc là hội viên của tổ chức xã hội - nghề nghiệp về hướng dẫn du lịch, hướng dẫn viên du lịch tại điểm du lịch phải có phân công của quản lý điểm du lịch, khu du lịch, tránh tình trạng hướng dẫn viên thực hiện hành vi kinh doanh dịch vụ du lịch tự do.
Luật Du lịch 2017 đã quy định cụ thể về Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch ở các nội dung địa vị pháp lý, mục đích, nguyên tắc hoạt động, đặc biệt là nguồn thu để khắc phục tình trạng không lập được quỹ này với 4 nguồn: vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp; ngân sách nhà nước bổ sung hằng năm một phần trích từ nguồn thu phí tham quan, phí cấp thị thực và các giấy tờ có liên quan đến xuất nhập cảnh Việt Nam cho người nước ngoài; nguồn tài trợ, đóng góp tự nguyện, hợp pháp của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài và các nguồn thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Định mức, tỷ lệ cụ thể được Chính phủ quy định chi tiết.
Trên cơ sở nội dung của Luật Du lịch 2017, hệ thống văn bản hướng dẫn cụ thể một số điều luật và thi hành Luật Du lịch 2017 bao gồm các Nghị định của Chính phủ và Thông tư của các Bộ, ngành tới nay đã hoàn tất hầu hết các điều khoản quan trọng.
Nghị định 168/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Du lịch của Chính phủ đã tập trung làm rõ 7 nội dung tại các điều của Luật Du Lịch 2017 bao gồm: Điều tra, đánh giá, phân loại tài nguyên du lịch; Biện pháp bảo đảm an toàn cho khách du lịch; Điều kiện công nhận điểm/khu du lịch; Ký quỹ kinh doanh du lịch lữ hành; Cấp đổi phù hiệu, biển hiệu phương tiện vận tải khách du lịch; Điều kiện tối thiểu về điều kiện cơ sở vật chất của cơ sở lưu trú cho khách du lịch; Nguồn hình thành quỹ du lịch.
Ngày 28/10/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định 94/2021/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 168/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Du lịch (gọi tắt là Nghị định 168/2017) đưa ra nội dung sửa đổi Điều 14 của Nghị định số 168/2017/NĐ-CP về mức ký quỹ kinh doanh dịch vụ lữ hành theo chiều hướng giảm xuống.
Chính phủ cũng đã có những văn bản bổ sung làm rõ theo phân công tại các điều luật trong Luật Du lịch 2017 như “Quy định về mô hình quản lý khu du lịch quốc gia” tại Nghị định số 30/2022/NĐ-CP “về quy định mô hình quản lý khu du lịch quốc gia”. Nghị định này có hiệu lực từ ngày 1/8/2022 và đã làm rõ những quy định 3 loại hình tổ chức quản lý khu du lịch quốc gia, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị quản lý khu du lịch quốc gia thuộc phạm vi quản lý của bộ, cơ quan ngang bộ; ban quản lý khu du lịch quốc gia thuộc phạm vi quản lý của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) và Doanh nghiệp đầu tư hình thành khu du lịch quốc gia.
Tháng 01/2020, Chính phủ đã ban hành “Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2030”. Trong đó xác định những mục tiêu hết sức lớn và kỳ vọng về phát triển du lịch để phát triển đất nước: Đến năm 2025, đưa Việt Nam vào nhóm ba quốc gia dẫn đầu về phát triển du lịch trong khu vực Đông Nam Á và 50 quốc gia có năng lực cạnh tranh du lịch hàng đầu thế giới, trong đó tất cả 14 tiêu chí năng lực cạnh tranh du lịch đều tăng, phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững với tổng thu từ khách du lịch ước đạt 1.700 - 1.800 nghìn tỷ đồng (tương đương 77 - 80 tỷ USD), đón được ít nhất 35 triệu lượt khách quốc tế và 120 triệu lượt khách nội địa, duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân về khách quốc tế từ 12 - 14%/năm và khách nội địa từ 6 - 7%/năm; Đến năm 2030, Du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn và phát triển bền vững và Việt Nam trở thành điểm đến đặc biệt hấp dẫn, thuộc nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh du lịch hàng đầu thế giới, đáp ứng đầy đủ yêu cầu và mục tiêu phát triển bền vững; Tổng thu từ khách du lịch: Đạt 3.100 - 3.200 nghìn tỷ đồng (tương đương 130 - 135 tỷ USD), tăng trưởng bình quân 11 - 12%/năm; đóng góp trực tiếp vào GDP đạt 15 - 17%; Phấn đấu đón được ít nhất 50 triệu lượt khách quốc tế và 160 triệu lượt khách nội địa; duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân về khách quốc tế từ 8 - 10%/năm và khách nội địa từ 5 - 6%/năm.
Về phía cơ quan bộ chủ quản, Bộ Văn hoá, thể thao và Du lịch đã có Thông tư số 06/2017 “về quy định một số điều luật Du lịch” quy định làm rõ 3 vấn đề: Nội dung bồi dưỡng thi cấp chứng chỉ nghiệp vụ điều hành du lịch; Tiêu chuẩn phục vụ của của sở kinh doanh du lịch cùng một số mẫu văn bản giấy tờ liên quan.
Trên cơ sở chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, các Bộ, Ban Ngành liên quan; các địa phương đã vào cuộc quyết liệt trong thực hiện chức năng cụ thể hoá và triển khai các vấn đề về phát triển du lịch của địa phương.
Một hệ thống Nghị quyết, Quy hoạch tổng thể, Chiến lược, Kế hoạch tổng thể thúc đẩy phát triển du lịch… của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã hình thành; có địa phương còn xây dựng được các chính sách riêng cho phát triển du lịch, tạo nên một hệ thống chính sách, pháp luật về du lịch có sự phân công, phân cấp trách nhiệm đối với bộ máy chính quyền các cấp; các cơ quan chuyên môn du lịch và liên quan. Chúng ta đã có cả một hệ thống chính sách, pháp luật du lịch và một “thế trận” hành động thống nhất về phát triển du lịch trên khắp quốc gia.
Cùng chung sức với toàn hệ thống chính trị, với trách nhiệm cơ quan chuyên môn, Ngành Du lịch cũng đã xây dựng và tổ chức thực hiện nhiều chương trình xúc tiến du lịch quốc gia, điều phối các hoạt động xúc tiến du lịch liên vùng, liên tỉnh, triển khai các ứng dụng công nghệ số… đem lại hiệu quả, tạo hiệu ứng tích cực, đưa khả năng cạnh tranh của Du lịch Việt Nam lên vị trí thứ 2 khu vực Đông Nam Á (xếp sau Indonesia, theo Báo cáo năng lực cạnh tranh du lịch năm 2019 của Diễn đàn Kinh tế thế giới); lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tăng gấp 2 lần, tổng thu từ du lịch và lượng khách du lịch nội địa tăng hơn 1,7 lần, từ năm 2017 đến thời điểm trước khi xảy ra dịch COVI-19 đã từng được ví như “thời hoàng kim” của du lịch đổi mới có được từ việc hệ thống thể chế đã đi vào thực tiễn, tạo nên luồng gió du lịch mới đầy hiệu quả. Tuy nhiên, sau hai năm thực hiện Luật Du lịch 2017 với những thành tựu chưa từng có, du lịch Việt Nam đã có lúc lâm vào trạng thái tê liệt bởi những khó khăn do đại dịch COVID-19 gây ra. Tới nay, bối cảnh phát triển nói chung và du lịch nói riêng cũng đã có nhiều thay đổi để phù hợp với điều kiện “bình thường mới”.
2. Quan điểm về định hướng hoàn thiện chính sách, pháp luật du lịch
Sứ mạng phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn mang lại nguồn thu lớn cho quốc gia đang đặt ra yêu cầu tháo gỡ những nút thắt của hoạt động du lịch, trong đó chính sách, pháp luật với vai trò định hình hệ thống, chìa khoá hành động là hết sức quan trọng. Các điều chỉnh cần thiết về chính sách, pháp luật du lịch trước hết cần hướng tới định hướng lâu dài, nhưng đặc biệt là phải hướng tới việc tạo thực hiện những nhiệm vụ đề ra trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 và Chương trình hành động phát triển du lịch giai đoạn 2021- 2025 nhằm tạo sự đồng thuận, thống nhất trong nhận thức và hành động trên toàn quốc.
Sức hấp dẫn của du lịch là từ chiều sâu văn hoá bản địa, để thực hiện được mục tiêu quốc gia về du lịch, việc vận dung tư duy chung để tạo ra hành động riêng, phù hợp, hiệu quả trong khai thác tài nguyên và tổ chức du lịch của các địa phương là rất quan trọng. Bên cạnh việc ban hành chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trong lĩnh vực du lịch; huy động nguồn lực, thu hút đầu tư phát triển du lịch thì mức độ lồng ghép các nội dung liên quan đến phát triển du lịch trong các chiến lược, chương trình, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, trong hoạt động của các ban, ngành, đoàn thể tại địa phương cũng có tính quyết định đối với thành quả lĩnh vực du lịch .
3. Một số nội dung chính sách, pháp luật du lịch hiện hành cần hoàn thiện
Về nguyên tắc tổ chức du lịch:
Muốn đáp ứng mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài phải tổ chức du lịch theo hướng phát triển du lịch bền vững.
Để phát triển du lịch bền vững, cần đặc biệt lưu ý xây dựng và áp dụng nguyên tắc “du lịch có trách nhiệm” vào du lịch Việt Nam. Nếu du lịch bền vững là định hướng lớn thì “du lịch có trách nhiệm” là nguyên tắc hoạt động thường nhật, lâu dài để đạt được định hướng đó. Bằng cách làm rõ vai trò, trách nhiệm trong thực thi du lịch của các bên liên quan (nhà nước; doanh nghiệp; cộng đồng địa phương, công chúng; khách du lịch và các tổ chức phát triển), “du lịch có trách nhiệm” vừa tạo sự cạnh tranh, năng động lại vừa có hiệu quả trong bảo vệ, bảo tồn và phát huy các giá trị, thế mạnh của quốc gia và địa phương. Trên cơ sở các nội dung về “du lịch có trách nhiệm” đã được đưa vào Việt Nam thông qua Dự án “Chương trình phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội” do Liên minh Châu Âu (gọi tắt là Dự án EU) tài trợ trong giai đoạn từ năm 2011 đến 2015, cần có quy định cụ thể về việc đưa tinh thần nguyên tắc “du lịch có trách nhiệm” vào tất cả các nội dung về du lịch, từ quy hoạch, chương trình hành động… cho đến hoạt động kinh doanh, quản lý điểm đến du lịch để tăng cường trách nhiệm, khẳng định thương hiệu cho du lịch Việt Nam.
Về chính sách du lịch:
Tiếp tục bổ sung nội dung chính sách đối với du lịch đặt ra tại Điều 5 Luật Du lịch 2017 bằng các chính sách cụ thể của Nhà nước.
Trên thực tế, xử lý những vấn đề khó khăn trong đại dịch COVID-19, các doanh nghiệp du lịch đã được hưởng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước nhưng cơ bản là những chính sách chung, ngắn hạn (như giảm giá điện, giảm phí cấp phép, hỗ trợ người lao động gặp khó khăn, hỗ trợ đào tạo việc làm, giảm tiền ký quỹ…), cần thiết phải có những chính sách đặc thù, dài hơi cho du lịch để phù hợp hơn. Tập trung vào các chính sách chung cho du lịch (về thu hút đầu tư; liên kết kinh doanh; miễn phí thông tin khi nghiên cứu thực hiện đầu tư; hỗ trợ, miễn phí về thủ tục thành lập doanh nghiệp; hỗ trợ pháp lý, giải quyết khó khăn trong giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng du lịch…), xây dựng bài bản và tạo nguồn chi cho các chính sách cụ thể về hỗ trợ hoặc có thể miễn phí trong du lịch như: lập quy hoạch phân khu xây dựng khu du lịch; nâng cao chất lượng các điểm, khu du lịch cộng đồng; cải tạo cảnh quan môi trường điểm, khu du lịch cộng đồng; xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch cộng đồng; xây dựng nhà đón tiếp và trưng bày bán hàng lưu niệm, các sản phẩm đặc sản; xây dựng nhà vệ sinh công cộng tại các khu, điểm du lịch cộng đồng; xây dựng hệ thống biển, bảng thuyết minh, chỉ dẫn; đầu tư các khu du lịch cộng đồng, sinh thái; xây dựng cơ sở hạ tầng trong các khu di tích lịch sử, văn hóa khi liên kết khai thác phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể nhằm phát triển du lịch; xây dựng bãi đỗ xe chung; xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải, rác thải sinh hoạt; tập huấn, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực du lịch; công tác xúc tiến du lịch; quảng cáo, giới thiệu hình ảnh, sản phẩm của doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh du lịch trên trang thông tin điện tử; ứng dụng công nghệ thông tin trong kinh doanh du lịch…
Về xây dựng sản phẩm du lịch:
Cần xây dựng sản phẩm du lịch hấp dẫn, có chiều sâu bản địa. Sản phẩm du lịch là yếu tố mang tính quyết định sức hấp dẫn của du lịch. Điểm yếu dẫn đến tình trạng “một đi không trở lại” của khách du lịch ở Việt Nam, kể cả quốc tế và nội địa, là bởi sản phẩm du lịch thiếu hấp dẫn, không có chiều sâu bản địa, thuần xem nhìn, thiếu trải nghiệm, lặp lại tương tự ở nhiều nơi. Vì thế đây là một khâu cần được đầu tư nâng cao chất lượng cũng như làm mới sản phẩm. Cần quy định làm rõ hơn khoản 1 Điều 18 của Luật Du lịch 2017, xây dựng chính sách phát triển cho các loại hình sản phẩm du lịch gắn với đặc thù loại hình, lợi thế vùng của các sản phẩm tại các địa phương, vùng miền.
Bên cạnh những sản phẩm truyền thống như du lịch văn hoá; du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch tâm linh cần xây dựng các sản phẩm du lịch thể hiện rõ tính chất riêng như du lịch đô thị; du lịch nông thôn; du lịch biển đảo, du lịch cao nguyên, du lịch công nghiệp, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch học tập, nghiên cứu; du lịch chữa bệnh, du lịch thể thao, du lịch về đêm… gắn với các mô hình kinh tế chia sẻ, có sự liên kết hệ thống ở nhiều mức độ như tỉnh /thành, vùng miền, quốc gia để có sự điều phối bù đắp, giảm giá thành, tăng sức thu hút.
Về tổ chức hoạt động du lịch:
Trong điều kiện bình thường mới hiện nay, cần phát triển du lịch trên cả hai phương diện quốc tế và nội địa. Trong đó du lịch quốc tế là kênh quảng bá, là nguồn thu quốc gia; du lịch nội địa là nguồn duy trì và thúc đẩy hoạt động, hình thành thói quen, nhu cầu du lịch trên diện rộng dân số, tạo đời sống xã hội về du lịch ở Việt Nam.
Với du lịch nội địa: Phương châm an toàn tới đâu mở cửa tới đó; an toàn ở đâu, tổ chức du lịch ở đó, tổ chức mô hình “bong bóng du lịch” là một sự đúng đắn để đạt được cả hai mục tiêu: phát triển kinh tế và cân bằng xã hội.
Cần nhìn nhận du lịch không chỉ đơn thuần là hoạt động mang lại các giá trị kinh tế mà là nhiều giá trị về phát triển con người như nâng cao trình độ hiểu biết, cân bằng trạng thái tâm lý, tái tạo sức lao động; tạo sự gắn kết xã hội ở nhiều mức độ quan hệ cá nhân, gia đình, tập thể cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức đoàn thể… đưa đến những bình ổn tích cực nếu được tổ chức đúng hướng và quản lý tốt. Du lịch cũng có thể là một hoạt động thể hiện trách nhiệm xã hội trên phương diện chi tiêu quay vòng nhằm đóng góp chung vào phát triển. Từ đó có sự chuyển dịch đầu tư cũng như cân đối cụ thể để các địa phương, các tổ chức, cơ quan, đoàn thể có thể điều phối, huy động kinh phí để thực hiện các hoạt động du lịch như một phương thức thực hiện một phần nội dung chuyên môn một cách phù hợp hoặc là sự khuyến khích, khuyến thưởng trong điều kiện cho phép để hình thành nhu cầu, cơ hội du lịch mang tính xã hội cho nhiều người, qua đó hiện thực hoá đời sống du lịch trong nước vì nhiều mục tiêu. Kích cầu và tổ chức được hoạt động du lịch nội địa vì thế cũng cần được tính toán và có chương trình hành động cụ thể.
Với du lịch quốc tế: Đặc biệt quan tâm phát triển hạ tầng du lịch thông minh, xây dựng chính sách tăng cường số hoá, sử dụng nhiều nền tảng để triển khai các chiến dịch truyền thông rộng mở, kích cầu du lịch có định hướng đối với du khách quốc tế ở các thị trường tiềm năng và thị trường trọng điểm.
Phân loại đối tượng khách du lịch để có chính sách phù hợp, kết hợp các chính sách linh hoạt, đơn giản hoá thủ tục xuất nhập cảnh, miễn thị thực, phát triển hạ tầng dịch vụ du lịch, y tế, vệ sinh, an toàn an ninh để tạo sự tin tưởng và hấp dẫn, thu hút trên cơ sở đảm bảo an ninh y tế, an ninh xã hội, an ninh quốc gia.
Tóm lại: Hệ thống chính sách, pháp luật về du lịch của Việt Nam hiện nay được xây dựng bài bản, đáp ứng các nội dung trọng tâm về phát triển du lịch. Các cơ quan có trách nhiệm xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật du lịch đã làm việc có trách nhiệm, đưa ra được các văn bản đảm bảo tính nguyên tắc và vận dụng hiệu quả. Việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về du lịch chủ yếu là làm sâu sắc, cụ thể hơn các vấn đề đã được đặt ra và bổ sung một số nội dung cần thiết, nhất là trên phương diện chính sách để xử lý phát sinh trong bối cảnh bình thường mới của thế giới và Việt Nam.
TS. NGUYỄN THỊ TUYẾN
Viện Văn hoá và Phát triển,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Các tin khác
Yên Mô – Ninh Bình: Nâng cao chất lượng cuộc sống từ xây dựng nông thôn mới tại xã Yên Lâm
MTXD - Sau khi đạt chuẩn NTM nâng cao vào năm 2021, cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị từ xã đến các thôn, xóm đã tập trung mọi nguồn lực, huy động sự vào cuộc của nhân dân đến năm 2024 xã Yên Lâm, huyện Yên Mô đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu.
Hiện thực hóa quy hoạch đô thị sông Hồng
MTXD - Có thể nói Hà Nội ngày nay đang hội tụ đầy đủ trong mình nhiều yếu tố gồm cả thế và lực để hiện thực hóa khát vọng, hiện thực hóa mục tiêu xây dựng không gian hai bên sông Hồng trở thành “Biểu tượng phát triển mới của Thủ đô”.
Đô thị nén sự lựa chọn hình thái của các đô thị phát triển theo hướng sinh thái ở Việt Nam
MTXD - QCVN 01:2019 đã làm rõ nội dung về kiểm soát mật độ dân số trong các đồ án quy...
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khẩn trương ứng phó bão số 3
MTXD - Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Công điện số 86/CĐ-TTg ngày 3-9-2024 chỉ đạo các bộ ngành, địa phương khẩn trương triển khai ứng phó bão số 3 năm 2024.