Tăng cường nguồn lực đầu tư cho phát triển đô thị ở Việt Nam
MTXD - Để quá trình phát triển của các đô thị trong cả nước đáp ứng các yêu cầu phát triển mới của đất nước, việc củng cố tài chính và tạo dựng nguồn lực phát triển đô thị từ trung ương đến địa phương đặc biệt việc huy động chính nội lực của các đô thị cho quá trình phát triển là cần thiết. Cùng với các nguồn hỗ trợ phát triển mà đô thị có được, cần đặc biệt chú trọng đổi mới cơ chế, chính sách phát triển đô thị, Thông qua các giải pháp về quy hoạch kết hợp các chính sách phù hợp để huy động sự tham gia của các thành phần kinh tế trong xã hội, thực hiện chủ trương xã hội hóa đầu tư cho phát triển đô thị.Tại Việt Nam, trong hơn hai thập kỷ qua, quá trình đô thị hóa nhanh gắn đã kết với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mạng lưới đô thị tăng trưởng cả về quy mô và số lượng.
Đô thị phát triển đã tạo ra nguồn lực lớn để phát triển kinh tế xã hội. Ảnh internet
Năm 1999 cả nước có 629 đô thị; năm 2009 có 754 (772) đô thị; năm 2015 có 787 đô thị; năm 2019 có 835 đô thị, năm 2022 có 888 đô thị. Đô thị hóa diễn ra nhanh chóng năm 1999 đạt 20,7%, 2009 đạt 29,6% năm 2019 đạt 38,4% năm 2022 đạt 41,7%. Đô thị đóng góp 70% GDP của cả nước.
Đô thị phát triển đã tạo ra nguồn lực lớn để phát triển kinh tế xã hội. Tăng trưởng kinh tế đô thị đạt trung bình 12-15% năm (gấp 2-2,5 lần bình quân cả nước, những năm 2020-2021 bị chậm lại do ảnh hưởng của đại dịch covid 19) góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tạo hàng triệu việc làm cho hàng triệu người; giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn; thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; phát triển văn hóa nghệ thuật, y tế và giáo dục… Hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tẫng xã hội.được cải thiện, từng bước tạo nên sự phát triển hài hòa giữa các vùng, miền (bao gồm cả các khu vực thuộc vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo).
Tuy nhiên, đô thị Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức mới trong quá trình tăng trưởng về số lượng, quy mô và chất lượng; sử dụng đất đai, tài chính và nguồn lực phát triển chưa hiệu quả; đô thị chịu tác động từ biến đối khí hậu và nước biển dâng, bão lũ, sạt lở sụt lún… Đô thị chưa được áp dụng công nghệ kỹ thuật mới để quản lý, phát triển thông minh, bền vững.
Để quá trình phát triển của các đô thị trong cả nước đáp ứng các yêu cầu phát triển mới của đất nước, việc củng cố tài chính và tạo dựng nguồn lực phát triển đô thị từ trung ương đến địa phương đặc biệt việc huy động chính nội lực của các đô thị cho quá trình phát triển là cần thiết. Cùng với các nguồn hỗ trợ phát triển mà đô thị có được, cần đặc biệt chú trọng đổi mới cơ chế, chính sách phát triển đô thị, trong đó các lĩnh vực quản lý nhà nước về quy hoạch, nhà đất, đầu tư xây dựng, khai thác sử dụng công trình đô thị… cần được quan tâm. Thông qua các giải pháp về quy hoạch kết hợp các chính sách phù hợp để huy động sự tham gia của các thành phần kinh tế trong xã hội, thực hiện chủ trương xã hội hóa đầu tư cho phát triển đô thi. đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, đẩy nhanh tiến trình nâng cấp chất lượng đô thi hóa.
1.Thực trạng sử dụng và huy động các nguồn lực đầu tư để phát triển đô thị ở Việt Nam
Phát triển đô thị đòi hỏi phải có nguồn lực đầu tư lớn, đặc biệt là từ ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp và phải chia sẻ cho nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau thì thách thức đặt ra đối với các cơ quan quản lý nhà nước là giữ vai trò điều phối các nguồn lực và thống nhất quản lý trên toàn quốc. Chính vì vậy, trong những năm vừa qua, Đảng và Chính phủ đã ban hành một số chủ trương, chính sách về tài chính và nguồn lực phát triển đô thị, nhằm đảm bảo sự phát triển đô thị bền vững, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI xác định nhiệm vụ “…huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại”. Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 đã đưa ra định hướng tăng cường các nguồn lực tài chính để thực hiện phát triển bền vững. Nhiệm vụ đặt ra đối với các cơ quan Quản lý nhà nước (QLNN) về phát triển đô thị là tăng cường đầu tư và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước để thực hiện Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam.
Các định hướng cụ thể bao gồm:
- Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), các nguồn đầu tư xã hội, nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho thực hiện phát triển bền vững.
- Xây dựng các cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức tài chính, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, cá nhân cung cấp tài chính, đầu tư cho các hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
- Tăng cường áp dụng các công cụ tài chính (thuế, phí …) để tăng nguồn tài chính cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia.
- Thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển bền vững để huy động và tiếp nhận các nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước, các nguồn tài trợ, đóng góp, ủy thác của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước nhằm hỗ trợ tài chính cho các dự án, các hoạt động, các sáng kiến và mô hình phát triển bền vững của các ngành, lĩnh vực, các địa phương và cộng đồng trên phạm vi toàn quốc.
Quyết định 445/QĐ-TTg ngày 7/4/2009 của Thủ tướng Chinh sphủ phê duyệt điều chỉnh định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050, Quyết định số 1659/QĐ-TTg ngày 7/11/2012 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển đô thị quốc gia giai đoạn 2012-2020 và Quyết định số 241/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch phân loại đô thị toàn quốc giai đoạn 2021-2030 Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 24/02/2021 đã đặt ra quan điểm phát triển đô thị trên cơ sở phân công trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các đô thị trong vùng kinh tế trọng điểm, vùng đô thị lớn nhằm phát huy cơ hội và khắc phục thách thức trong việc sử dụng các nguồn lực cho đầu tư phát triển, tạo sức lan tỏa.
Thực hiện chủ trương chính sách của Đảng về phát triển kinh tế xã hội, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 phê duyệt, ban hành “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050” (gọi tắt là chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh). Tại Chiến lược này, Chính phủ đã giao: “Bộ Tài chính chủ trì xây dựng chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức và cá nhân đầu tư phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam”. Đồng thời, Danh mục 10 Chương trình, dự án ưu tiên trong giai đoạn 2011-2015 (Ban hành kèm theo Quyết định 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ) cũng đã xác định ưu tiên số một là: “1. Đề án xây dựng cơ chế, chính sách huy động nguồn lực cho tăng trưởng xanh”; và “6. Khung chính sách thuế, tài khóa xanh gồm cả biểu thuế trợ giá”; “8. Khung chính sách hỗ trợ phát triển công nghệ xanh”…
Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Hội nghị Trung ương 7 (khoá XI) của Đảng về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”, trong đó đã khẳng định “Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính, tăng cường và đa dạng hoá nguồn lực cho ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”.
Quyết định số 403/QĐ-TTg ngày 20/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020”. Tại Quyết định này, Chính phủ cũng đã giao Ban điều phối triển khai Chiến lược tăng trưởng xanh phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài Chính “Xây dựng và ban hành Đề án xây dựng cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực (tài chính, nhân lực) cho tăng trưởng xanh giai đoạn đến năm 2020”. Đồng thời, giao Bộ Tài Chính phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư “xây dựng khung chính sách tài chính (bao gồm: thuế, phí, trợ giá, các quỹ, chế tài, các tiêu chí xanh/phát triển bền vững với doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán) liên quan tới thúc đẩy thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh”.
Riêng lĩnh vực tài chính, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký Quyết định số 2183/ QĐ-BTC ngày 20/10/2015 ban hành “Kế hoạch hành động của ngành Tài chính thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020”, trong đó đã nêu ra một số nhiệm vụ như: (i) xây dựng, hoàn thiện các chính sách tài chính liên quan tới thúc đẩy thực hiện
Chiến lược; (ii) rà soát hoàn thiện chính sách phát triển xanh các loại thị trường; (iii) rà soát, hoàn thiện chính sách tín dụng và hỗ trợ của Nhà nước...
Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 22/2/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng chỉ đạo cụ thể về các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý đô thị, phát triển kinh tế khu vực đô thị; đổi mới cơ chế, chính sách tài chính và đầu tư phát triển đô thị.
Có thể nói, nội dung tài chính và nguồn lực phát triển đô thị ít được đề cập chính thức, cụ thể trong các định hướng, chính sách phát triển kinh tế xã hội qua từng thời kỳ. Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực tiễn, Hệ thống các chính sách tài chính đô thị, quy định việc phân cấp, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển đô thị đã được các cơ quan QLNN quan tâm, ban hành.
Chính sách tài chính đất đai đã có những quy định cụ thể về thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất tại khu vực đô thị, góp phần tạo nguồn thu quan trọng vào ngân sách nhà nước (NSNN) và cho ngân sách địa phương (có nơi cao hơn tổng thu ngân sách ). Nguồn thu cho chính quyền đô thị, huy động và sử dụng các nguồn lực, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển đô thị, sắp xếp đơn vị hành chính đô thị, cải tạo chính trang đô thị trong giai đoạn 2011-2020 và giai đoạn 2021-2025.
Tầm quan trọng, vị trí, vai trò đặc biệt và tính đặc thù của lĩnh vực tài chính đô thị đối với phát triển kinh tế-xã hội đã giúp các chính quyền địa phương chủ động hơn trong việc quản lý đô thị, góp phần phát triển đô thị bền vững. Nguồn thu ngân sách của chính quyền đô thị ngày một tăng, đóng góp đáng kể vào hoạt động đầu tư phát triển đô thị và đóng góp vào nguồn ngân sách của cả nước. Có thể thấy, trong giai đoạn vừa qua, Nhà nước đã huy động được nguồn lực tài chính khá lớn để chi bổ sung cho ngân sách địa phương và hỗ trợ đầu tư phát triển (trong đó có đầu tư phát triển đô thị). Điều đó thể hiện chủ trương, chính sách nhất quán của Nhà nước về ưu tiên hỗ trợ phát triển đô thị. Bước đầu đã định hình được nhóm chính sách phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính trong ngân sách nhà nước, bổ sung theo hướng tăng cường sử dụng các công cụ kinh tế.
Hệ thống quản lý tài chính, ngân sách đô thị từng bước được kiện toàn và đổi mới. Phân cấp quản lý nguồn thu, chi giữa các cấp ngân sách có mối liên hệ chặt chẽ đối với sự ổn định, bền vững của ngân sách nhà nước và có tác động nhiều mặt đến sự phát triển đô thị giai đoạn 2011-2020.
Việc giảm tỷ lệ phân chia cho NSĐP của một số tỉnh có nguồn thu lớn sẽ làm tăng NSTW, tạo điều kiện chuyển nguồn lực tài chính cho các địa phương có nguồn thu thấp. Các địa phương sẽ có thêm nguồn lực tài chính để thực hiện các nhiệm vụ quản lý phát triển đô thị nói chung. Đồng thời, với nguồn lực tài chính tập trung, NSTW chủ động hơn trong việc phân chia cho các địa phương miền núi, vùng miền khó khăn để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
2. Một số điểm còn khó khăn, hạn chế
Khả năng huy động các nguồn lực xã hội (tài chính, đất đai) chưa hiệu quả, nguồn vốn cho đầu tư phát triển đô thị vẫn còn thiếu so với nhu cầu. Hiện giờ, vẫn còn nhiều tỉnh vẫn nhận hỗ trợ ngân sách từ trung ương. Nguồn lực đầu tư hạn chế ở địa phương là một trong những nguyên nhân khiến chính quyền địa phương mở rộng đất đô thị tràn lan, thiếu kiểm soát. Mức độ đáp ứng của nguồn vốn cho công tác đầu tư xây dựng hệ thống cấp, thoát nước, xử lý chất thải rắn sinh hoạt và nhà ở xã hội thấp hơn nhiều so với nhu cầu vốn.
Hoạt động kinh tế phi chính thức có vai trò nhất định trong việc phát triển đô thị. Tuy nhiên, việc nhận diện và quản lý bộ phận kinh tế này chưa được quan tâm đúng mức, ảnh hưởng lớn đến quản lý phát triển đô thị minh bạch, hiệu q Sử dụng nguồn lực cho phát triển đô thị chưa hiệu quả. Trong giai đoạn 2011-2020, mặc dù Chính phủ đã ban hành một số chính sách, chủ trương huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính phát triển đô thị, được cụ thể hóa trong các chiến lược phát triển, kế hoạch đầu tư trung hạn, dài hạn. Tuy nhiên, việc đầu tư phát triển đô thị còn dàn trải.
Chính quyền các đô thị chưa huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là từ đất đô thị, cho đầu tư phát triển đô thị. Còn tồn tại các dự án chưa hoàn thành nghĩa vụ tài chính về đất đai, chậm nộp tiền sử dụng đất/tiền thuê đất (trong đó có những dự án có tỷ lệ chậm nộp/số tiền phải nộp rất cao). Việc tạo nguồn lực từ đất đô thị cho công tác nâng cấp, cải tạo đô thị còn chưa thực hiện được mặc dù đã được quy định tại Luật Đất đai 2013. Vì vậy, Nhà nước phải đầu tư nhiều và không thu được ngân sách từ việc phát triển hạ tầng, chỉnh trang đô thị, hoạt động của Quỹ phát triển đất, Trung tâm phát triển quỹ đất bị hạn chế do không có kinh phí để bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất mà phải ứng vốn của nhà đầu tư dẫn đến việc đấu giá đất ít được thực hiện. Một số quy định về thuế tài sản, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng bất động sản… còn nhiều bất cập dẫn tới chưa khai thác và phân bổ hiệu quả nguồn lực từ đất đai đô thị.
Việc thực hiện cơ chế tự thỏa thuận để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nhà đầu tư và người sử dụng đất còn vướng mắc, không khuyến khích được đầu tư. Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại nhiều địa phương vẫn còn hạn chế, chưa thực hiện đúng quy định mở rộng phạm vi thu hồi đất, điều tiết giá trị tăng thêm từ đất bằng việc thu hồi đất vùng phụ cận; ban hành văn bản của địa phương còn chậm và có một số quy định không phù hợp.
Sử dụng nguồn lực cho phát triển đô thị chưa hiệu quả . Ảnh nguồn internet
3. Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế
Nền kinh tế Việt Nam chính thức vượt qua ngưỡng thu nhập thấp vào năm 2015, do vậy các nguồn lực hỗ trợ từ nước ngoài bị hạn chế, khả năng vay nợ để phát triển các công trình hạ tầng đô thị cũng hạn chế. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến việc huy động và sử dụng nguồn lực tài chính đô thị.
Các chính sách huy động và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai đô thị còn chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc quản lý phát triển đô thị chưa gắn liền với việc quản lý nhà nước về tài chính đất đai đô thị. Chính quyền đô thị chưa quản lý được lợi nhuận từ việc tăng giá đất đô thị, không thu được nguồn tài chính cho ngân sách, trong khi đó lại phải đền bù, giải phóng mặt bằng theo giá thị trường. Các nguồn tài chính đô thị có thể thu để phục vụ mục tiêu phát triển đô thị nhưng chính quyền địa phương chưa thu được. Cụ thể là:
+ Hệ thống hạ tầng đô thị ở các thành phố đã được cải thiện nhiều làm giá đất (kể cả đất nông nghiệp) tăng đáng kể, trong khi đó phần lợi nhuận này thường thuộc về người dân đô thị và các nhà đầu tư chứ không thuộc ngân sách nhà nước. Điều này gây ra những khó khăn cho công tác giải phóng mặt bằng, thực hiện các dự án đầu tư phát triển đô thị. Khi so sánh với nguồn thu ở các nước khác, yếu tố tài chính đất đai đô thị chưa được quan tâm, việc quản lý hiện nay bỏ qua các loại thuế từ nguồn lợi mà cá nhân hay pháp nhân có được do phát triển hạ tầng đô thị.
+ Các nguồn thu vào quỹ đầu tư chỉnh trang và phát triển đô thị đã thực hiện gồm các loại thuế, phí dịch vụ công và lệ phí (theo Luật Ngân sách), tiền chuyển mục đích sử dụng đất, tiền huy động trái phiếu công, các hình thức hợp tác công - tư và nguồn tài chính từ chính sách tư nhân hoá, xã hội hóa…
Tuy nhiên Nhà nước chưa thu đủ hoặc chưa thu được. Khi rà soát tất cả những lợi ích mà đô thị mang lại (chỗ đỗ xe trên đường phố, sử dụng vỉa hè,…) có thể thấy nhiều đối tượng đang được hưởng lợi nhưng không phải trả tiền.
Về thất thoát tài sản, tài chính công: (i) Một số dự án do khâu chuẩn bị dự án không kỹ (điều tra thị trường và xác định nhu cầu không đúng) dẫn đến việc ra quyết định đầu tư sai, đầu tư không đúng mục tiêu phát triển, gây lãng phí hoặc hiệu quả thấp; (ii) Thất thoát nhà đất công: Nhà đất công chủ yếu do các doanh nghiệp nhà nước quản lý khai thác không hiệu quả, hoặc cổ phần hóa tuỳ tiện gây thất thoát lớn. Ngoài ra, nhà đất công không được khai thác hợp lý để phục vụ việc đầu tư cơ sở hạ tầng cũng là những thất thoát lớn. Đã có nhiều trường hợp đất công được bán rẻ cho tư nhân, còn Nhà nước lại phải bỏ tiền đền bù cho tư nhân vì mục đích công cộng. (ii) Thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, không hợp lý làm kéo dài thời gian giải quyết hồ sơ đầu tư xây dựng, làm giảm hiệu quả đầu tư;
Chính quyền đô thị chưa được tự chủ về chính sách thu của địa phương. Cơ sở tính thuế và thuế suất do cấp Trung ương quy định. Luật Ngân sách nhà nước quy định cụ thể ba nguồn thu: nguồn thu Trung ương được hưởng 100%; nguồn thu địa phương được hưởng 100%; và các nguồn thu được phân chia. Các nguồn thu phân chia giúp thu hẹp khoảng cách chênh lệch tài khóa giữa nguồn thu NSĐP được hưởng 100% với nhu cầu chi của địa phương. Phần chênh lệch tài khóa theo chiều ngang còn lại sau khi nguồn thu NSĐP hưởng 100% được gộp với nguồn thu được phân chia sẽ được bù đắp bằng hệ thống bổ sung cân đối, được tính toán theo công thức cho ngân sách cấp tỉnh.
Cơ chế vận hành của hệ thống quản lý tài chính, ngân sách khu vực đô thị chưa phù hợp. Nhiệm vụ quản lý tài chính chưa rõ ràng giữa cấp tỉnh và cấp thành phố, chưa rõ ràng trong việc phân cấp, phân quyền, khuyến khích sự năng động của các chính quyền đô thị. Cơ chế, chính sách và các giải pháp nhằm tăng nguồn thu ở khu vực đô thị, đầu tư cho nhu cầu phát triển đô thị còn thiếu và chưa phù hợp, chưa tạo điều kiện, khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế.
Đẩy mạnh các nguồn thu nội tại trong đô thị…
4. Giải pháp tăng cường nguồn lực đầu tư cho phát triển đô thị ở Việt Nam
(i) Đổi mới tài chính đô thị, xác định cơ chế phù hợp để vận hành, kiểm soát hệ thống quản lý tài chính, ngân sách, sử dụng hợp lý các nguồn thu tại đô thị cho đầu tư phát triển đô thị. Nhu cầu để đầu tư phát triển đô thị và hạ tầng kỹ thuật đô thị là rất lớn, trong khi đó nguồn vốn ngân sách để chi cho đầu tư xây dựng ngày càng hạn chế, khả năng tiếp cận nguồn vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế, tiếp cận tài trợ của các nước ngày càng hạn hẹp hơn, do đó cần thiết phải có những giải pháp phù hợp đồng bộ để huy động mọi nguồn lực của xã hội tham gia đầu tư xây dựng các hệ thống này.
(ii) Tiếp tục rà soát, sửa đổi bổ sung hoặc đề xuất các cấp có thẩm quyền sửa đổi bổ sung để hoàn thiện các cơ chế chính sách nhằm thu hút đầu tư vào đô thị. Đồng thời, tiếp tục tranh thủ và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ từ Trung ương. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giảm tối đa chi phí về thủ tục hành chính cho nhà đầu tư.
(iii) Sớm thể chế hóa các giải pháp đã được nghiên cứu về chính sách tài chính đô thị: (i) Sử dụng thận trọng nguồn vốn ngân sách nhà nước; (ii) Đề xuất ban hành phí hỗ trợ phát triển, thu từ chủ đầu các các công trình tư nhân liên quan chi phí hạ tầng đô thị phục vụ công trình đó, (iii) Tiếp tục thực hiện đầu tư xây dựng theo hình thức đối tác công tư (PPP), (iv) Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ từ đất đai, thuế, (v) Chính phủ có cơ chế thí điểm phân cấp quyền tự chủ cho các địa phương chủ động được nguồn tài chính phát triển đô thị. Để đưa các giải pháp này vào thực tiễn cần thể chế hóa, một số giải pháp phải được luật hóa. (iv) Xác định cơ chế phù hợp để vận hành, kiểm soát hệ thống quản lý tài chính, ngân sách, sử dụng hợp lý các nguồn thu tại đô thị cho đầu tư phát triển đô thị. Trong quá trình phát triển, việc xây dựng chính quyền đô thị là điều cần thiết để đảm bảo công tác quản lý phát triển đô thị hiệu quả. Đô thị cần có sự chuẩn bị chủ động, đồng bộ về pháp lý và nguồn nhân lực, bộ máy đủ sức đảm đương nhiệm vụ, tận dụng các nguồn lực để phát triển đô thị có trọng điểm, hài hòa về lợi ích. (v) Huy động nguồn tài chính dựa trên nguyên tắc tự nguyện. Chính quyền đô thị tạo hành lang pháp lý, điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư, người dân đóng góp nguồn lực tài chính cho phát triển đô thị. Nhà nước định hướng các chính sách theo nguyên tắc: (i) Ai được hưởng lợi phải trả tiền, (ii) Ai gây thiệt hại cho người khác phải bồi thường. Nguyên tắc này là cơ sở của tính năng động trong việc huy động tài chính và cũng là trách nhiệm của chính quyền trước đồng tiền thu được từ dân. (vi) Đa dạng hóa và khai thác sử dụng hiệu quả nguồn lực phát triển đô thị Đẩy mạnh các nguồn thu nội tại trong đô thị, tập trung tối đa hóa các khoản thu từ thuế tài sản, phí người sử dụng dịch vụ phải trả tiển và sử dụng đất đô thị cho hoạt động kinh doanh. Xác định cơ sở thuế theo nguyên tắc người dùng trả tiền, người thụ hưởng phải trả tiền và người gây ô nhiễm phải trả tiền là Cải cách quản lý thuế tài sản như đánh giá, định giá đất cũng như lưu trữ hồ sơ cũng cần phải chú trọng.
Giao kế hoạch thu ngân sách phù hợp, coi từng đô thị là một phần không thể thiếu trong huy động doanh thu. Giao kế hoạch thu ngân sách cho từng chính quyền đô thị trên cơ sở khuyến khích các đô thị được sử dụng lớn tỷ lệ nguồn thu mà họ thực hiện được. Nếu đô thị nào không thực hiện được kế hoạch tăng nguồn thu phải bị áp dụng các chế tài kịp thời. Quản lý chi tiêu chặt chẽ và công khai tài chính, thường xuyên rà soát các định mức chi tiêu và hợp lý hóa cho phù hợp với thực tế. Cải tiến phương thức mua sắm, tổ chức đo lường hiệu suất và hệ thống quản lý cho các nhà cung cấp dịch vụ và nhà quản lý, thực thi các chỉ tiêu về tính minh bạch và trách nhiệm để cải thiện chất lượng chi tiêu của chính quyền địa phương. Đơn giản hóa hệ thống ngân sách và kế toán của các đô thị. Một số khoản chi tiêu của thành phố có thể được công bố công khai theo định kỳ với nguyên tắc đơn giản, dễ hiểu.
Ban hành định mức chi tiêu cụ thể và gắn trách nhiệm tài chính cho cho mỗi đô thị: Đặt ra định mức chi tiêu cụ thể cho từng loại đô thị trên cơ sở cân đối các tác động giữa dân số, công nghệ và lợi thế tài nguyên. UBND tỉnh có thể ban hành các biện pháp tăng thu nhập của thành phố, cắt giảm chi tiêu không cần thiết và cho phép tiếp cận quỹ thị trường.
Tăng cường hợp tác công tư, khu vực tư nhân có vai trò quan trọng trong xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị. Chính phủ cần có giải pháp hoàn chỉnh hệ thống chính sách công và các văn bản pháp luật để định dạng cho các quan hệ đối tác công tư, đảm bảo lợi ích các bên và công bằng của xã hội cũng như thực thi trách nhiệm giải trình của cả các chủ thể giữa nhà nước và tư nhân. Có chính sách hỗ trợ để các thành phố lớn đóng vai trò cực phát triển đô thị quốc gia và vùng phát triển mạnh bắt kịp khu vực và thế giới; các đô thị trung bình và nhỏ phát triển gắn với các khu kinh tế, khu công nghiệp, các vùng nông nghiệp cao sản. Nghiên cứu, ban hành các qui định về trách nhiệm chia sẻ tài chính phù hợp cho từng loại đô thị, cấp quản ly hành chính đô thị. Chủ động, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư phát triển đô thị, tạo động lực tăng trưởng kinh tế cho đô thị để hình thành các đô thị đóng vai trò cực tăng trưởng của vùng kinh tế- xã hội, vùng kinh tế trọng điểm của cả nước. Ưu tiên sử dụng các nguồn lực cho phát triển hệ thống hạ tầng khung, hạ tầng ngầm và hạ tầng kết nối giữa các đô thị lớn trung tâm cấp quốc gia, cấp vùng, cấp tỉnh; tăng cường kết nối đô thị với nông thôn đặc biệt tại các khu vực có dự kiến hình thành đô thị mới, đơn vị hành chính đô thị mới, mở rộng phạm vi hành chính đô thị.
Tài chính đô thị là quá trình vận động liên tục phát sinh, phát triển của các nguồn tài chính làm thay đổi các mối quan hệ tiền tệ và có liên quan chặt chẽ với hệ thống chính sách cơ chế quản lí đô thị để duy trì hoạt động thường xuyên của đô thị và thực hiện quá trình đô thị hóa. Hệ thống tài chính đô thị là bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính quốc gia, nơi mà các chủ thể của hệ thống tài chính đô thị tham gia vào thị trường tài chính. Hệ thống tài chính đô thị cần được xem xét từ quá trình xây dựng đô thị hay đô thị hóa trên cơ sở công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế, tạo ra các đô thị có vị trí quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, du lịch. Hệ thống tài chính đô thị được khai thác và quản lý chặt chẽ, qui hoạch và thiết kế tối ưu, huy động nhanh hiệu quả là tăng cường nguồn lực cho đầu tư phát triển đô thị trong bối cảnh phát triển hiện nay của đât nước. Tạo nguồn thông minh, linh hoạt, cấp phát thanh toán và hạch toán kinh tế với bộ máy và những nhà quản lí xây dựng đô thị giỏi, tác nghiệp quản lí phù hợp, hệ thống luật lệ và qui chế đồng bộ sẽ tạo đà cho đô thị phát triển.
TS. KTS. TRẦN THỊ LAN ANH
Các tin khác
Yên Mô – Ninh Bình: Nâng cao chất lượng cuộc sống từ xây dựng nông thôn mới tại xã Yên Lâm
MTXD - Sau khi đạt chuẩn NTM nâng cao vào năm 2021, cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị từ xã đến các thôn, xóm đã tập trung mọi nguồn lực, huy động sự vào cuộc của nhân dân đến năm 2024 xã Yên Lâm, huyện Yên Mô đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu.
Hiện thực hóa quy hoạch đô thị sông Hồng
MTXD - Có thể nói Hà Nội ngày nay đang hội tụ đầy đủ trong mình nhiều yếu tố gồm cả thế và lực để hiện thực hóa khát vọng, hiện thực hóa mục tiêu xây dựng không gian hai bên sông Hồng trở thành “Biểu tượng phát triển mới của Thủ đô”.
Đô thị nén sự lựa chọn hình thái của các đô thị phát triển theo hướng sinh thái ở Việt Nam
MTXD - QCVN 01:2019 đã làm rõ nội dung về kiểm soát mật độ dân số trong các đồ án quy...
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khẩn trương ứng phó bão số 3
MTXD - Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Công điện số 86/CĐ-TTg ngày 3-9-2024 chỉ đạo các bộ ngành, địa phương khẩn trương triển khai ứng phó bão số 3 năm 2024.