Tổng quan hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy hoạch, xây dựng công trình dân dụng và công trình công nghiệp của Việt Nam

​MTXD - Theo các văn bản QPPL hiện hành, QCVN là văn bản pháp quy kỹ thuật, bắt buộc áp dụng, là công cụ quản lý nhà nước và là chuẩn mực kỹ thuật để xem xét, thẩm định và phê duyệt cũng như nghiệm thu và khai thác sử dụng công trình xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam.

MTXD - Theo các văn bản QPPL hiện hành, QCVN là văn bản pháp quy kỹ thuật, bắt buộc áp dụng, là công cụ quản lý nhà nước và là chuẩn mực kỹ thuật để xem xét, thẩm định và phê duyệt cũng như nghiệm thu và khai thác sử dụng công trình xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam.

1.Tổng quan hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia do Bộ Xây dựng ban hành

Theo Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 và Luật Quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia, Bộ Xây dựng có nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư xây dựng, ban hành các quy chuẩn quốc gia về xây dựng. Với 16 QCVN đã được ban hành, các QCVN đã bao trùm lên các hoạt động xây dựng từ công tác lập quy hoạch, khảo sát, thiết kế, thi công, giám sát thi công, quản lý dự án, và các hoạt động khác có liên quan đến xây dựng công trình.

Đây chính là công cụ quản lý nhà nước của các Bộ, ngành nhằm kịp thời đáp ứng yêu cầu quản lý ngành, lĩnh vực, ngăn chặn các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng, ảnh hưởng đến môi trường, sức khoẻ, tính mạng con người; và đó cũng là biện pháp kỹ thuật để bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam trước những nguy cơ tiềm ẩn.

Theo các văn bản QPPL hiện hành, QCVN là văn bản pháp quy kỹ thuật, bắt buộc áp dụng, là công cụ quản lý nhà nước và là chuẩn mực kỹ thuật để xem xét, thẩm định và phê duyệt cũng như nghiệm thu và khai thác sử dụng công trình xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam.

QCVN còn là cơ sở để soát xét, biên soạn, công nhận, ban hành tiêu chuẩn quốc gia về xây dựng của Việt Nam, cũng như cho phép áp dụng tiêu chuẩn nước ngoài.

Trong 16 QCVN có QCVN thuộc loại Quy chuẩn kỹ thuật chung như QCVN 02: 2021/BXD - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy hoạch xây dựng; QCVN 02: 2022/BXD - Quy chuẩn kỹ thuật gia về số liệu điều kiện tự nhiên dùng trong xây dựng;. . . có QCVN thuộc loại quy chuẩn kỹ thuật an toàn như QCVN 06: 2022/BXD- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn cháy cho nhà và công trình; QCVN 18: 2021/BXD- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn trong xây dựng; có QCVN là quy chuẩn kỹ thuật cho quá trình như QCVN 16: 2019- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây dựng; có QCVN quy chuẩn cho một đối tượng cụ thể như QCVN 04: 2021/BXD- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nhà chung cư; QCVN 17: 2018/BXD - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng và lắp đặt phương tiện quảng cáo ngoài trời. ...

Trong 16 QCVN trên, hầu hết các QCVN đã hơn một lần được soát xét, đặc biệt một số QCVN đã được soát xét đến lần 2, lần 3, lần 4; Ví dụ QCVN 01: 2008/BXD/QCVN 01: 2010/BXD/QCVN 01: 2019/BXD/QCVN 06: 2019/BXD/QCVN 06: 2021/BXD/QCVN 06: 2020/BXD/QCVN 06: 06: 2021/BXD/QCVN 06: 2022/BXD. Điều này cho thấy hệ thống QCVN về xây dựng hiện đã dần đáp ứng được các yêu cầu của thực tiễn xây dựng và yêu cầu quản lý nhà nước về quy hoạch xây dựng, kiến trúc; hoạt động đầu tư xây dựng; phát triển đô thị; hạ tầng kỹ thuật; nhà ở, vật liệu xây dựng…

Ảnh minh họa- Internet

Nhìn chung, trên thế giới, quy chuẩn xây dựng thường được áp dụng trong các hoạt động xây dựng trên lãnh thổ của mỗi quốc gia. Các quốc gia đều nhận thức được những lợi ích của việc tuân thủ Quy chuẩn xây dựng, cụ thể:

- Giảm chi phí xây dựng

Việc tuân theo các quy chuẩn xây dựng là khả năng giảm chi phí dự án. Việc tuân thủ các quy định không chỉ giúp giảm chi phí mà còn bảo đảm yêu cầu an toàn của công trình trước các biến đổi khí hậu trong tương lai.

- Giảm chi phí năng lượng

Việc tuân thủ các quy chuẩn xây dựng sẽ làm tiết kiệm năng lượng, giúp tiết kiệm đáng kể chi phí quản lý sau khi đưa công trình vào khai thác vận hành đồng thời làm giảm chi phí dài hạn cho người sử dụng.

- Đảm bảo yêu cầu về môi trường

Do lượng năng lượng tiêu thụ trong xây dựng là rất lớn, vì vậy việc thực thi các quy chuẩn trong xây dựng trở thành một phương pháp làm giảm chi phí, tăng năng suất, giúp giảm lượng khí thải nhà kính của quốc gia.

- Hạn chế các rủi ro khi bỏ qua việc tuân thủ các quy chuẩn xây dựng

+ Việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy chuẩn xây dựng sẽ hạn chế những vấn đề bất cập khi dự án bị phát hiện không tuân thủ quy chuẩn xây dựng, bị đình chỉ xây dựng, tạo ra sự mất lòng tin với các cơ quan quản lý và khách hàng trong tương lai.

+ Việc không tuân thủ quy chuẩn xây dựng cũng làm hạn chế đến việc cấp phép. Đây là một bước trong quy trình xây dựng mà không ai mong muốn trong khi sự chậm trễ này hoàn toàn có thể tránh được nếu tuân thủ quy chuẩn xây dựng.

+ Đảm bảo an toàn cho công trình trong suốt thời gian vận hành, khai thác sử dụng.

Bằng cách tuân thủ quy chuẩn quốc gia và quy chuẩn địa phương có thể giảm nguy cơ mất an toàn của công trình trong suốt thời gian tuổi thọ của công trình trước những nguy cơ có nhiều bất lợi nhất như động đất, thiên tai, cháy nổ...

Mặc dù hệ thống Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trong một thời gian dài đã đóng góp vai trò to lớn trong các hoạt động xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam, tuy nhiên hệ thống QCVN về xây dựng cũng bộc lộ một số tồn tại, hạn chế. Do nhiều nguyên nhân khác nhau nên mặc dù QCVN là văn bản pháp quy kỹ thuật bắt buộc áp dụng nhưng các địa phương vẫn gặp nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng. Điều này làm giảm đi tính hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng và ảnh hưởng đến chất lượng công trình, cũng như làm giảm đi cơ hội cho phép các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia sâu vào hoạt động xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam khi chúng ta đã ký kết, tham gia các FTA thế hệ mới, với các cam kết mở hơn, sâu hơn.

2. Một số bất cập, hạn chế trong quá trình áp dụng

Hiện nay, trong hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng, một số các QCVN đều hướng đến một đối tượng, loại công trình cụ thể (như QCVN về biển quảng cáo ngoài trời, QCVN về nhà ở chung cư, QCVN về gara ô tô; QCVN về Rạp chiếu phim; QCVN về cửa hàng xăng dầu; QCVN về bến xe khách... Nếu theo cách tiếp cận này thì hệ thống QCVN về xây dựng còn thiếu rất nhiều QCVN cho các loại hình công trình khác nhau, ví dụ như QCVN về công trình công nghiệp, bệnh viện, trường học. . . trong khi đó quan điểm quản lý nhà nước: (i) Quy chuẩn chỉ điều tiết các vấn đề chung, còn các đối tượng công trình cụ thể do tiêu chuẩn điều tiết, hay (ii) quy chuẩn điều tiết trực tiếp cả các công trình cụ thể? Vẫn còn chưa được thống nhất?

Trong khi đó, tại Đề án hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật xây dựng đã được Thủ tướng Chỉnh phủ phê duyệt (Đề án 198), Bộ Xây dựng chủ trì biến soạn và ban hành 10 quy chuẩn, bao gồm: QCVN 01 về Quy hoạch xây dựng; QCVN 02 về số liệu điều kiện tự nhiên dùng trong xây dựng; QCVN 03 về phân cấp, phân loại công trình xây dựng; QCVN 04 về Nhà ở và công trình công cộng (QCVN 04: 2021 chỉ giới hạn là nhà chung cư); QCVN 05 về Sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây dựng; QCVN 06 về An toàn cháy cho nhà và công trình; QCVN 07 về Công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị; QCVN 08 về An toàn trong thi công xây dựng; QCVN 09 về Các công trình xây dựng sử dụng năng lượng hiệu quả và QCVN 10 về Xây dựng công trình đảm bảo người khuyết tật tiếp cận sử dụng. Đối chiếu với hệ thống QCVN về xây dựng (16 QCVN) và với cách tiếp cận như đã nêu ở trên chúng ta thấy vừa thừa lại vừa thiếu? Ngoài ra còn có trùng lắp về một số nội dung giữa các QCVN (Ví dụ nội dung về hạ tầng kỹ thuật trong QCVN 01: 2021/BXD và QCVN 07: 2016/BXD) Một số quy định trong hệ thống quy chuẩn xây dựng chưa thực sự phù hợp với thực tiễn Việt Nam do được chuyển dịch chấp nhận từ tài liệu nước ngoài. Hiện nay có nhiều QCVN được xây dựng dựa trên quy chuẩn, tiêu chuẩn của một số quốc gia trên thế giới, ví dụ QCVN 06: 2022/BXD là dựa trên hệ thống NFPA của Mỹ và CHII 2. 01. 02- 85 của LB Nga; QCVN 09: 2005/BXD dựa trên Quy chuẩn quốc tế IBC, tiêu chuẩn Hoa Kỳ ASHRAE- Handbook 1993: Fundamentals; Code of Practice "Overall Thermal Transfer Value in buildings. HongKong, 1995; Code on Envelope Thermal Performance for Buildings. Singapore, 2008; QCVN 03: 2022/BXD dựa trên EN 1990.... Trong khi quy chuẩn quốc gia phải tính đến các điều kiện tự nhiên và phải phù hợp với công nghệ, yêu cầu quản lý nhà nước của quốc gia đó. Điều này đôi khi cũng tạo ra sự bất cập khi quy chuẩn được xây dựng dựa theo quy chuẩn của một nước nhưng trong thực tế công trình lại được đầu tư bằng vốn và áp dụng quy chuẩn của nước khác. Ví dụ QCVN 08: 2018/BXD, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về công trình tàu điện ngầm được biên soạn dựa theo theo tiêu chuẩn của Nga, nhưng dự án xây dựng tàu điện ngầm lại của nhà đầu tư Nhật hoặc nước khác. Điều này làm giảm tính hội nhập quốc tế của Việt Nam đối với khu vực và thế giới và làm hạn chế khả năng cạnh tranh của các nhà thầu Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực.

Một số nội dung trong QCVN được quy định quá chi tiết, quá cụ thể, bao gồm khó áp dụng trong thực tế, chỉ thích hợp với một số công nghệ xây dựng nhất định, cả công thức tính toán, dẫn đến một số quy định trong quy chuẩn trở nên cứng nhắc, trong khi các giải pháp công nghệ khác có thể giải quyết đảm bảo tốt các chỉ tiêu trong giới hạn an toàn cho phép. việc QCVN đưa ra những quy định cụ thể mang tính giải pháp sẽ làm hạn chế những sáng tạo và ứng dụng công nghệ mới và là rào cản kỹ thuật bo sung trong quá trình hội nhập. Trường hợp QCVN 06 trải qua 4 lần rà soát bổ sung là một vị dụ. Hiện QCVN 06: 2022/BXD lại đang được Bộ Xây dựng chỉ đạo tiếp tục, sửa đổi.

Về nguyên tắc, quy chuẩn là căn cứ để ban hành tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn được coi là giải pháp để thỏa mãn các yêu cầu của quy chuẩn, tuy nhiên sự liên thông, kết nối giữa quy chuẩn và tiêu chuẩn chưa rõ ràng.

Do sản phẩm xây dựng có đặc thù riêng biệt khác với một sản phẩm hàng hóa cụ thể, có liên quan đến nhiều ngành nghề khác nhau nhưng hiện nay còn thiếu liên kết giữa các bộ chuyên ngành, chưa có sự thống nhất đồng bộ giữa các văn bản. Ví dụ như Bộ Y tế ban hành QCVN 22/2016/BYT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chiếu sáng: Bộ Xây dựng ban hành QCVN 12: 2014/BXD Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hệ thống điện cho nhà ở và công trình công cộng. Cả hai QCVN đều quy định độ rọi nơi làm việc? Điều này sẽ tạo ra khó khăn cho các nhà đầu tư và cả những nhà thầu không biết phải tuân thủ quy chuẩn nào.

Một số quy chuẩn còn trùng lặp về phạm vi và đối tượng điều chỉnh do có sự giao thoa về quản lý nhà nước giữa các Bộ chuyên ngành. Ví dụ: QCVN 18: 2014/BXD về an toàn trong xây dựng có nhiều nội dung liên quan đến các quy chuẩn về an toàn của Bộ Lao động thương binh và xã hội (Bộ LĐTBXH); QCVN về Rạp chiếu phim lại do Bộ VH- TT- DL ban hành...

Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác, đó là: Các vấn đề bất cập trong nội thi dung của các quy chuẩn kỹ thuật, nhìn chung chưa được phát hiện kịp thời để nghiên cứu điều chỉnh đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn Việt Nam; Thiếu sự kiểm soát của các cơ quan chuyên môn, sự không tuân thủ của các tổ chức, cá nhân khi áp dụng quy chuẩn kỹ thuật trong hoạt động xây dựng. Thực tế cho thấy nếu tuân thủ nghiêm ngặt các quy định trong quy chuẩn sẽ làm giảm thiểu tính dễ bị tổn thương trong trường. hợp xảy ra những biến đổi bất thường trong thiên tai hoặc trong trường hợp xảy ra sự cổ cháy nổ. Trận động đất 7,8 độ rich te vừa xảy ở Thổ Nhĩ Kỳ và Sirva hôm 6/2/2023 vừa qua là một minh chứng rõ nét về việc cần phải tuân thủ các quy định xây dựng liên quan đến an toàn cho con người và an toàn công trình. Các chuyên gia cho biết, Thổ Nhĩ Kỳ đã đề ra nhiều quy định về xây dựng để giảm thiểu thiệt hại do động đất (dựa chuẩn của Mỹ), song các công ty xây dựng thường chỉ áp dụng những quy định này một cách qua loa, bên cạnh đó quá trình kiểm tra, giám sát thi công còn lỏng liền, khiến thợ thi công có thể không tuân thủ quy định. Một số quy định trong QC VĂN chưa thể áp dụng trong điều kiện hiện tại; Chưa tính đến điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế giữa các vùng miền; Nội dung QCVN chỉ đáp ứng và phù hợp cho các dự án đầu tư xây mới; Một số dự án áp dụng công nghệ mới, kỹ thuật phức tạp, lần đầu tiên áp dụng vào Việt Nam không có tài liệu để kiểm soát, kiểm tra. Một số QCVN được soát xét nhiều lần trong một thời gian ngắn đã làm khó cho các dự án đầu tư xây dựng trong quá trình chuyển tiếp bởi tính hiệu lực của văn bản.

Số lượng QCĐP được ban hành còn rất hạn chế, do khó có thể đáp ứng được yêu cầu (1) Sự phù hợp của quy chuẩn kỹ thuật với quy định của pháp luật và cam kết quốc tế có liên quan; (2) Tinh thống nhất, đồng bộ trong hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. Hiện nay hầu hết các QCDP đều viện dẫn QCVN vì vậy vẫn khó đưa vào áp dụng tại địa phương. Trong khi đó, theo quy định thì quy chuẩn địa phương là Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng và ban hành để áp dụng trong phạm vi quản lý của địa phương đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình đặc thù của địa phương và yêu cầu cụ thể về môi trường cho phù hợp với đặc điểm về địa lý, khí hậu, thủy văn, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Điều này dẫn đến một QCĐP phải kéo dài nhiều năm mới được công bố, ban hành. Một số địa phương, thay vì ban hành QCĐP họ lại ban hành các quy chế quản lý kiến trúc quy hoạch trong đó có nội dung như quy chuẩn để điều tiết, ví dụ như về số tầng hầm, số tầng nhà, mật độ xây dựng cho từng khu vực cụ thể trong đô thị;..., ví dụ Quy chế quản lý kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh tại Quyết định số 56/2021/QĐ- UBND ngày 28 tháng 12 năm 2021. Quy chế này nhằm quản lý cảnh quan đô thị, kiến trúc các công trình xây dựng theo quy hoạch đô thị được duyệt, kiểm soát việc xây dựng mới, cải tạo, chỉnh trang đô thị theo định hướng phát triển kiến trúc, bảo vệ cảnh quan, bản sắc văn hóa dân tộc, đặc trưng kiến trúc đô thị Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Quy chế cũng cụ thể hóa các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy hoạch, kiến trúc và xây dựng để quản lý kiến trúc đô thị phù hợp với điều kiện thực tế của Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay chỉ mới có Thành phố Hà Nội ban hành QCDP về xây dựng đó là Quy chuẩn kỹ thuật về quy hoạch, kiến trúc tại khu vực các quận Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội (QĐ 975/QĐ- UBND ngày 21/3/2022).

Ảnh minh họa -Internet

3. Kiến nghị đề xuất

Đổi mới phương pháp biên soạn QCVN: theo phương pháp tính năng (Performance) nhằm tạo sự linh hoạt trong việc áp dụng các công nghệ, các vật liệu xây dựng, các hệ thống, các thiết bị, các thiết kế mới. Mọi vật liệu, cấu kiện, giải pháp thiết kế, thi công đều có thể được áp dụng nếu chúng thoả mãn các yêu cầu về tính năng, trong đó:

+ Yêu cầu mục tiêu: nêu rõ mục tiêu cần đạt được

+ Yêu cầu về công năng: xác định các yêu cầu mà công trình cần đạt được cho mỗi mục tiêu.

+ Yêu cầu về tính năng: quy định các yêu cầu về tính năng kỹ thuật cụ thể mà cấu kiện, vật liệu, giải pháp thiết kế, thi công phải đạt được các mục tiêu trên.

Hay nói một cách khác, quy chuẩn chỉ nên đưa ra những yêu cầu, nguyên tắc, những mức giới hạn tối thiểu (hoặc tối đa) bắt buộc phải tuân thủ mà không giới hạn phương pháp để đạt được kết quả yêu cầu” (Perforrmance- based).

Là thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia còn phải phù hợp với các nguyên tắc sau: (1) Đơn giản hoá; (2) Đồng thuận; (3) Áp dụng; (4) Thống nhất; (5) Đổi mới; (6) Đồng bộ; (7). Tính pháp lý.

- Quy chuẩn kỹ thuật cần dựa vào các tiêu chí đảm bảo yêu cầu về an toàn cộng đồng, bảo vệ môi trường, khuyến khích sử dụng vật liệu tiết kiệm năng

lượng, thân thiện môi trường.

- Các yêu cầu phải có căn cứ khoa học, không đưa ra những yêu cầu cần thiết, hạn chế đưa ra những yêu cầu chỉ mang tính định tính, vì chúng cản trở thương mại với các nước thành viên khác và với chính thương mại trong nước.

- Cần thiết lập một cơ chế để phản ánh được các ý kiến của các ngành kinh tế, người tiêu dùng và các bên liên quan trong hoạt động biên soạn và áp dụng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.

- Có cơ chế phù hợp để thúc đẩy việc xây dựng và áp dụng quy chuẩn hợp để nâng cao chất lượng công trình xây dựng và quản lý nhà nước, đặc biệt là cơ chế thúc đẩy áp dụng quy chuẩn.

- Đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động xây dựng quy chuẩn, thúc đẩy xây dựng các quy chuẩn địa phương. Cần có sự hỗ trợ đầy đủ, tích cực của các bộ, ngành, hiệp hội nghề nghiệp và các tổ chức khoa học, doanh nghiệp...

- Tạo cơ chế tiếp cận thông tin về quy chuẩn kỹ thuật thuận lợi hơn;

- Đẩy nhanh việc số hóa và xây dựng các cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động quản lý lĩnh vực này để phù hợp với chủ trương tiếp cận nền kinh tế số để kết nối dữ liệu về quy chuẩn, tiêu chuẩn phù hợp, khả thi và đồng bộ.

- Chỉnh lý, hoàn thiện các chính sách theo hướng đẩy mạnh phân công, phân cấp, quy định cụ thể về thẩm quyền cho các Bộ, địa phương phê duyệt quy chuẩn kỹ thuật để làm rõ trách nhiệm quản lý lĩnh vực này, đồng thời tăng cường nguồn lực tài chính cho các cơ quan, địa phương thực hiện nhiệm vụ được phân cấp; đổi mới quy trình, thủ tục phê duyệt quy chuẩn.

- Để thúc đẩy quá trình áp dụng QCVN cần có đẩy mạnh công tác xây dựng các tài liệu hướng dẫn.

- Cần có sự điều chỉnh Luật Quy chuẩn, tiêu chuẩn. Trong đó cần làm rõ quy định về nội dung thẩm định quy chuẩn địa phương, bởi theo quy định: quy chuẩn địa phương phải phù hợp với quy định của pháp luật; đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam; không chồng chéo về quy định kỹ thuật, yêu cầu quản lý hay vi phạm các quy định của QCVN tương ứng? Trong khi chuẩn địa phương cần phải phù hợp với đặc điểm về địa lý, khí hậu, thuỷ văn, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương để áp dụng trong phạm vi quản lý của địa phương. Chính vì điều này mà hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia khó đi vào cuộc sống, mặc khác lại hạn chế khả năng ban hành quy chuẩn của các địa phương./.

ThS. TRẦN THỊ THANH Ý

Ban KHCN – Tổng hội Xây dựng Việt Nam

 

 

Các tin khác

Tạp chí đang tạm dừng hoạt động theo quyết định của cơ quan chủ quản để hoàn thiện công tác nhân sự.
Yên Mô – Ninh Bình: Nâng cao chất lượng cuộc sống từ xây dựng nông thôn mới tại xã Yên Lâm
Yên Mô – Ninh Bình: Nâng cao chất lượng cuộc sống từ xây dựng nông thôn mới tại xã Yên Lâm

MTXD - Sau khi đạt chuẩn NTM nâng cao vào năm 2021, cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị từ xã đến các thôn, xóm đã tập trung mọi nguồn lực, huy động sự vào cuộc của nhân dân đến năm 2024 xã Yên Lâm, huyện Yên Mô đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu.

Hiện thực hóa quy hoạch đô thị sông Hồng
Hiện thực hóa quy hoạch đô thị sông Hồng

MTXD - Có thể nói Hà Nội ngày nay đang hội tụ đầy đủ trong mình nhiều yếu tố gồm cả thế và lực để hiện thực hóa khát vọng, hiện thực hóa mục tiêu xây dựng không gian hai bên sông Hồng trở thành “Biểu tượng phát triển mới của Thủ đô”.

Đô thị nén sự lựa chọn hình thái của các đô thị phát triển theo hướng sinh thái ở Việt Nam
Đô thị nén sự lựa chọn hình thái của các đô thị phát triển theo hướng sinh thái ở Việt Nam

MTXD - QCVN 01:2019 đã làm rõ nội dung về kiểm soát mật độ dân số trong các đồ án quy...

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khẩn trương ứng phó bão số 3
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khẩn trương ứng phó bão số 3

​MTXD - Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Công điện số 86/CĐ-TTg ngày 3-9-2024 chỉ đạo các bộ ngành, địa phương khẩn trương triển khai ứng phó bão số 3 năm 2024.